Sunday, July 27, 2008

Thai Duong Nguyen Van Xanh

"Thái Dương" NGUYỄN VĂN XANH
Một người như mọi người!
* William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).
Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn g=E 1n trong phần tổn thất của quân bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích". Chấm hết!
Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT
* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nh ì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.
Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt t5n công mà người Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.
[1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]
Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.
Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.
Hôm đó là ngày=2 09 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung v ới tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ!
Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng20thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.
Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã20vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.
Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.
Sau khi cất cánh khỏi phi trường Ko ntum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.
Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật20chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.
Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngC3y trước khi bị bắt.
* * *
Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá.
Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai20cái hamburger còn sống.
Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì c ng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái "cầu" này để vào trại.
Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bB gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!
Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.
"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài c i hố xí để bạn phóng uế xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không c bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.
Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có "vấn đề". Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây "yucca" ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hB được cạo râu.
Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.
Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.
* * *
Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!
Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố g=E 1ng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi", tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.
Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.
Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.
* * *
Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.
Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lA 1i còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lFm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.
Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.
Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại20ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!
Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậ y, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.
* * *
Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bư ớc đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng v0o người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!
Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm cB 4ng việc áp giải.
Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội" lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.
* * *
Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.
Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.
Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong m t ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.
Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, tr ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.



Saturday, July 26, 2008

Đại Đội 765 Hành Khúc


Mong Cac ban tim lai bai DAIDOI 765 HANH KHUC MOT THOI o Dong De
MOT DOAN NGUOI TRAi VUI RA DI, XA NIEM VUI PHO PHUONG, QUEN SAU THUONG VAN VUONG, LUON HIEN NGANG...765 REN CHI TRAI ...765
NGUYEN SAT VAI..

Quân trường vang tiếng gọi

Quan Trường Hành Khúc


Bài này còn có tựa: Quân Trường Vang Tiếng Gọi


Một hai ba bốn...một hai ba bốn

Đây khúc ca vang lên nơi Quan trường đầy hào hùng
Vai ghé vai ta đua tài trong tình Quan Ngu
Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm
Quan trường đổ mồ hôi
Quan trường đổ mồ hôi
Chiến trường bớt đổ máu
Chiến trường bớt đổ máu

Bước bước bước chân hăng say
Ta thi gan cùng nhọc nhằn
Làm rạng người với giòng xương trắng máu hồng

Quan trường đổ mồ hôi
Quan trường đổ mồ hôi
Chiến trường bớt đổ máu
Chiến trường bớt đổ máu

Cố lên cố lên dù nhọc nhằn
Da chan mồ hôi pha máu hồng viết thành sử xanh

Anh em ơi
Đem sức trai nêu chí hùng lưu tiếng ngàn thu
Anh em ơi
Ta quyết thề đem mồ hôi rủa sạch hận thù

Quan trường đổ mồ hôi
Quan trường đổ mồ hôi
Chiến trường bớt đổ máu
Chiến trường bớt đổ máu

Cố lên cố lên dù nhọc nhằn
Da chan mồ hôi pha máu hồng viết thành sử xanh

Một hai ba bốn... Một hai ba bốn





EDITED VERSION
Đây khúc ca vang nơi quân trường đầy hào hùng

Vai sánh vai ta thi tài trong tình quân ngũ

Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm

1234 (2 lần)

Anh em ơi ! Đem sức trai, nêu chí hùng, lưu tiếng ngàn thu.

Anh em ơi ! Ta quyết thề, đem mồ hôi rữa gội căm thù.

Thao trường đổ mồ hồi, chiến trường bớt đổ máu.

Lúc quốc biến, trong gian nan, ta thi gan, cùng hào hùng

Làm rạng ngời giống người xương trắng máu đào.

Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu

Cố lên ! Cố lên! DÙ nhọc nhằn

ĐEM MỒ HÔI PHA MÁU HỒNG viết thành sử xanh


ORIGINAL

Đây khúc ca vang nơi quân trường đầy hào hùng

Vai sánh vai ta thi tài trong tình quân ngũ

Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm

1234 (2 lần)

Anh em ơi ! Đem sức trai, nêu chí hùng, lưu tiếng ngàn thu.

Anh em ơi ! Ta quyết thề, đem mồ hôi rữa gội căm thù.

Thao trường đổ mồ hồi, chiến trường bớt đổ máu.

Lúc quốc biến, trong gian nan, ta thi gan, cùng hào hùng

Làm rạng ngời giống người xương trắng máu đào.

Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu

Cố lên ! Cố lên! cứ nhọc nhằn

Ta quyết thề đem mồ hôi viết thành sử xanh

Thursday, July 17, 2008

CHAO MUNG DAI HOI QUAN TRUONG DONG DE NHA TRANG


Thư Mời

Tham Dự Đại Hội 10 Năm Thành Lập
Hội Ái Hữu Quân Trường Đồng Đế Nha Trang

Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Đồng Đế Nha Trang trân trọng kính mời:
Quý niên trưởng, quý chiến hữu, quý thân hữu, cùng gia đình bớt chút thời giờ đến thăm dự buổi lễ 10 năm thành lâp hội được tổ chức tại:

Nhà Hàng China Feast
12100 Beach Blvd
Stanton, Ca 90860
Phone: (714) 898-8933
Thời Gian: Chủ Nhật, Ngày 31 Tháng 8, Năm 2008
Từ 10:00 am - 3:00 pm

Trong chương trình, Ban Tổ Chức có buổi lễ đặc biệt:

1. Đặc vòng hoa tưởng niệm tại tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ
2. Vinh danh các phu nhân tù cải tạo

Sự hiện diện đông đủ của quý niên trưởng, quý chiến hữu, quý thân hữu, cùng gia đình sẽ là một vinh dự lớn lao cho ban tổ chức.

Để việc đón tiếp được chu đáo, xin quý vị vui lòng thông báo số người tham dự trước Ngày 15 Tháng 8 Năm 2008 qua các số điện thoại sau đây:

Vũ Thêm: (714) 878 - 9560
Phạm Lượng: (714) 722 - 2053
Tần Nam: (714) 878 - 5528

Quận Cam, Ngày 20 Tháng 7 Năm 2008,

Ban Tồ Chức Trân Trọng Kính Mời

Chương Trình Tổng Quát:

10:00 am Lễ đặt vòng hoa tưởng niệm tại tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ.
11:00 am Tiếp Đón quý niên trưởng, quý chiến hữu và quý thân hữu
11:30 am Nghi lễ Khai Mạc, Lời Chào Mửng Của Ban Tổ Chức
12:00 pm Bầu Ban Chấp Hành Mới (Nhiệm Kỳ: 2008-2010)
1:00 pm Tiệc Trưa Thân Mật & Chương Trình Văn Nghệ
2:00 pm Buổi Lễ Vinh Danh Các Phu Nhân Tù Cải Tạo
2:30 pm Phát Hành Đặc San Đồng Đế 2008
3:00 pm Lời Cãm Tạ Của Ban Tổ Chức và Bế Mạc Chương Trình

Ghi Chú: Xin quý vị ủng hộ $25.00 cho mỗi phần ăn

Tuesday, July 15, 2008

QUAN TRUONG DONG DE


Thành phố Nha Trang cứ mổi Chúa nhật là nao nức chờ đón các chàng SVSQ
đủ các binh chủng Hải quân, Không quân, Bộ binh đi phép dập dìu qua các đường phố, trên các chuyến xe Lam, trong các quán ăn, quán cà phê nghe nhạc, nơi rạp ciné, ở bải biển …Ðâu đâu củng thấy bóng dáng các “ông Quan tương lai” lui tới . Con gái Nha
Thành có được cơ hội tốt và hiếm có để “tìm chồng Quan” giửa chốn ba quân, ở cái chổ
mà Quan thừa, Gái thiếu …
Mọi nghành nghề đều vương lên, phát đạt nhờ có đám “Lính Con Cá” .Chàng
nào củng rủng rỉnh bạc cắt bỏ túi và so ra thì có vẻ hào hoa, phóng khoáng, thanh lịch, văn nghệ và bảnh cỏn .Từ quần áo mặc ủi thẳng li, thẳng nếp, cổ thắc cravat, đầu đội mủ lưởi trai, nói năng nhẹ nhàng từ tốn, lịch sự với mọi người và nhất là với các bà các cô .Chơi củng điệu hơn, tiền boa, tiền típ củng khá hơn ….

Tôi với thằng Linh hay đi phép chung với nhau .Hai thằng từ Ðồng Ðế đón
xe Lam ra Nha Trang, hẹn gặp thêm vài thằng bạn Hải quân nửa, rồi cả bọn kéo nhau đi chơi, đi uống cà phê, nghe nhạc .Mấy thằng bên Hải quân nó ở Nha Trang lâu hơn, nên biết nhiều chổ đi chơi…không tệ lắm .Có những lúc tôi với Linh không biết đi đâu, hai đứa thả bộ theo đường Ðộc lập, dọc theo bờ biển, rồi tìm 2 cái ghế bố nằm hướng ra biển nhìn trời cao bể rộng, nhăm nhi “nước mắt quê hương”.
Sau khi rời khỏi hai chiếc ghế bố ở quán bán dừa, hai thằng trở lại phố “làm” hai đỉa cơm bình dân, dằn cho no bụng, rồi thả bộ ra bến xe Lam, đón xe trở lại quân trường .

Trường Ðồng Ðế nằm cạnh bờ biển, ban đêm gió mát, thổi rì rào, rung cành lá
hàng cây Thông trồng dọc theo con đường trước barack chúng tôi ở .Hôm nào đi bải tập
về sớm, tắm rửa sạch sẻ, tôi hay mò xuống câu lập bộ nhâm nhi ly cà phê và phì phà vài điếu thuốc lá trước khi trở về barack nghỉ ngơi, ngồi viết thơ hay tán dóc với mấy thằng bạn .Có những đêm mưa to gió lớn thổi nghe ào ào, chúng tôi đứa nào củng nằm trùm mềm mà lắng nghe … “tiếng mưa đêm”.
Buổi sáng đi ra bải tập vòng theo chân núi, ra hướng biển, sương xuống thấp ..còn lửng lơ ở lưng chừng núi .Sớm mai yên tỉnh, biển im lìm như đang còn say giấc nồng
.Tôi thích được vừa đi, vừa ngắm biển trời mênh mông …Ra đến bải tập, sau khi đả
chuẩn bị tất cả, chờ sỉ quan Huấn luyện viên đến, chúng tôi tản hàng, tấp vào các hàng gánh của vợ con Hạ sỉ quan, binh sỉ cơ hửu phục vụ trong quân trường ăn mì gói đổ nước sôi vào, bỏ ớt thật cay ..vừa húp nước, vừa thở hít hà cho ấm .Rồi sang đến gánh bán cà phê, nhấm nháp một cái xây chừng, khói lửa vài phút nhìn ngắm núi non trời nước ..
Buổi trưa , sau khi học tập Chiến thuật xong củng được giải khác bằng cà phê đá, nước đá chanh do gia đình các cán bộ gánh theo bán. Chiều, học ở bải xong trở về, thủy triêu dâng cao, sóng đánh mạnh tạt vào bờ, nước tung lên trắng xóa .Nhìn từ xa ngoài khơi, từng ngọn sóng bạc đầu tới tấp bủa vào bờ, âm thanh nghe ào ào, rì rào theo tiếng gió ..

Có những hôm ra bải học Chiến thuật tác chiến ban đêm, tối ngủ lại .Chiều
xuống, chúng tôi sắn quần lội ra những ghềnh đá , đùa giởn với sóng nước . Phía sau Bải Tiên, bên kia ngọn núi thấp là Ðầm Nha Phú, một khoảng nước mênh mông, phẳng lặng như cái hồ bơi khổng lồ .Thỉnh thoảng chúng tôi kéo nhau sang tắm, đùa giởn, rượt đuổi bắt theo những con cá đầy mầu sắc đang nhở nhơ bơi lội.

Hồi chưa vào lính, thỉnh thoảng tôi có nghe bài hát nào đó, diển tả nhửng hoạt động của các tân binh đang luyện tập nơi các quân trường có câu, “Dây Tử thần không làm sờn chí nam nhi” .. .Giờ tôi nếm thử “đi dây Tử thần” xem sao? Ðó là một đoạn dây cáp, dài khoảng 1000m, nối từ hai ngọn tháp trên hai quả đồi không cao lắm . Khoảng cách giửa hai ngọn đồi có một cái hồ nước ở giửa, đường kính độ 12m, Hai bên bờ hồ theo chiều của dây cáp có đổ cát, mổi bên dài độ 15m . Sau khi được chỉ dẩn qua cách “đi dây”, nắm cái ròng rọc cho chặt rồi co giò phóng ra. Ròng rọc
có mang người sẻ di chuyển trên sợi dây cáp theo sức nặng và độ nghiêng của dây cáp,
có thể đi với tốc độ thật nhanh .Khóa sinh đu người tòng teng và buông tay nắm cái ròng rọc cho thân mình rớt xuống hồ nước ở thế 90 độ của thân mình và cặp giò …chạm mặt nước bằng “đít” . Buông tay sớm, hay trể thì rớt vô mặt đất, có đá lởm chởm, hay rớt vô vùng cát, …sẻ được xe cứu thương đậu chờ sẳn, chở đi …tùy theo tình trạng . Tới vị trí hồ nước , buông tay không đúng thế, ngực vổ xuống mặt nước thì …miệng sẻ …ứa máu hồng, hoặc sẻ …không thở nổi …Có một nhóm cấp cứu ngồi chờ ở gần hồ nước để vớt lên, làm hô hấp nhân tạo. Khóa sinh xếp hàng một từng người đi lên ngọn tháp . Có một sỉ quan Huấn luyện viên phụ trách đứng ở đó .
Tôi còn đang xếp hàng, đứng ở dưới ngọn tháp đả thấy có vài anh em buông tay rớt xuống hồ nước, nhưng rớt không đúng thế, chìm lỉm, được toán cấp cứu nhào xuống “bế” lên nựng ...
Có một vài anh em hơi “nhợn”, rụt rè …chờ tới phiên mình. Mổi lần có thằng phóng ra từ ngọn tháp, chúng tôi đứng bên dưới nghe tiếng kêu rít lên của cái bánh xe sắt cọ sát, lăn trên sợi dây cáp. …
Chưa có ai lọt ra ngoài mặt đất, nhưng có thằng “rớt trên cát” ..nằm thẳng cẳng. Ðến phiên tôi …Tôi đứng trên đỉnh tháp, nhìn xuống thấy củng hơi …choáng váng mặt mày. Ðứng phía dưới trông lên không thấy nó cao …mà đứng phía trên nhìn xuống mới thấy …chới với . Thấy cái hồ nước nhỏ xíu, nhìn sợi dây cáp …dài thăm thẳm sang đến ngọn đồi bên kia .Gió thổi ù ù hai bên lổ tai . Tôi nuốt nước miếng lấy bình tỉnh, hai tay nắm chặt cái ròng rọc….Rồi lệnh của Huấn luyện viên bảo “nhảy”, tôi co giò phóng ra …,tôi nghe hai bên tai ù ù tiếng gió và tiếng rít lên của cái ròng rọc .Tôi mở mắt thật to nhìn vị trí cái hồ nước, từ cái điểm đang nhỏ xíu hiện lớn dần thật nhanh, tôi chuẩn bị cặp giò hơi co lên, nhưng cử động không nổi vì sức gió mạnh …tôi cố vận dụng hết sức mình …mặt nước đả kề sát …tôi buông tay ra …
“Ùm” một cái ..tôi cảm giác mát lạnh, bàn đít như ai vổ mạnh …,tôi chìm lỉm ..rồi
từ từ ngoi lên mặt nước ..bơi vào bờ . Tôi đả thực tập đúng theo lời chỉ dẩn và đả được an toàn …
Sau khoá của tôi thực tập đi dây tử thần, có nhiều SVSQ bị học máu mồm, vì rớt không đúng cách . Cảm thấy “trò chơi “ nầy hơi nguy hiểm . Bộ chỉ huy quân trường ra lệnh bải bỏ .

Tuổi 19, xếp bút nghiên nhập ngủ
Bỏ sau lưng ấp ủ chuyện tương lai,
Tung Hoành Sơn gội nắng gió tháng ngày
Tròn bổn phận làm trai thời chiến loạn

Gót chân nhỏ, nhưng lòng son gan thép,
In dấu hài khắp chốn đất quê hương
Nơi Cao nguyên sỏi đá với rừng thiên
Trải dài xuống bưng biền vùng đất cuối

Ôm lý tưởng thanh bình cho sông núi,
Chống bạo tàn, dành cuộc sống ấm no
Ðổi máu đào, xương trắng lấy tự do
Thề nối bước cha anh vì đại nghỉa ..

Quyết xông pha , vẩy vùng nơi trận địa
Bom đạn gào đâu sờn chí Nam nhi
Như Kinh Kha …dẩu có một lần đi
Gương Tráng Sỉ muôn đời soi hậu thế

Từng vùng đất cháy đen thành hoang phế,
Nay hồi sinh chào đón những đóa hoa
Rừng hoang vu ngập ánh nắng chan hòa
Ðồng lúa cháy ..xanh lên màu mạ mới

Những bước chân hầu như không biết mỏi,
Bước hành trình nặng triểu …nổi niềm riêng,
Chờ đợi ngày bom đạn đả ngủ yên
Về nối lại chuyện ngày xưa thuở ấy …


Sau khi đả vào quân ngủ, tôi cảm thấy được làm “người Lính”, có nếp sống thật hào hùng …và hiên ngang của một người trai thời chiến “làm trai cho đáng nên trai”. Nhớ đến những ngày tôi còn làm học trò ớ thành phố và những người bạn của tôi thuở trước , tôi thấy nó yếu đuối, nho nhả làm sao ấy …Quân đội đả rèn luyện cho tôi trở nên dạn dỉ và mạnh bạo đi vào đời. Quân đội đả rèn luyện cho tôi có những trách nhiệm và bổn phận của một người sỉ quan trong tương lai mà những quyết định, những việc làm sau nầy của tôi sẻ nắm giử sinh mạng và sự sống còn của một tập thể do tôi lảnh đạo .Tôi đả bắt đầu tự nép mình vào khuôn khổ “Tự thắng để chỉ huy” .

Chúng tôi được xe GMC tới chở đi đến Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỷ để học cách điều chỉnh tác xạ Pháo binh. TTHL/Dục Mỷ nằm cách thị xả Ninh hòa độ 7km về hướng Tây, hướng núi . Trên đường đi đến , đoàn xe chở chúng tôi đi ra ngỏ Lương Sơn, sau đèo Rù Rì trên quốc lộ 1.
Cảnh trí hai bên đường thật đẹp và thơ mộng, bên phía Tây là núi đồi chập chùng hùng vỉ, phía Ðông là biển rộng bao la một vùng nước của đầm Nha Phú mênh mông như mặt hồ, nước trong vắt . Qua khỏi khu vực đầm Nha Phú ra bờ biển có bải cát chen lẩn đá lởm chổm, sóng vổ ào ào.
Quê hương miền Trung thật đẹp thơ mộng và tình tứ . Rất tiếc là tôi không có được dịp để đi thêm nửa, đi xa hơn nửa để chiêm ngưởng những cảnh sắc thiên nhiên của trời đất ban cho dân Việt nam. Qua hết đoạn đường bờ biển, quốc lộ 1 đi xuyên qua những ngọn đồi thấp nắng cháy, tôi nhìn thấy những tản đá màu xám nằm chen lẩn với những cây trơ cành, trụi lá, mặt đất cỏ cháy vàng mầu nâu xậm. Khi chúng tôi vào đến thị xả Ninh Hòa, gặp nhầm lúc giờ đi làm, đi học .Xe honda, xe đạp của đân địa phương đủ các lứa tuổi, đủ các mầu sắc áo quần chen chúc nhau trên con đường chính vô thị xả . Từng bầy “con gái” mặt áo dài trắng, đầu đội nón lá đi xe đạp đến trường .Hai bên con đường phố xá buôn bán tấp nập .
Phố xá thị xả Ninh Hòa không có nhiều nhà lầu xây bằng gạch, đa số nhà trệt . Nhìn qua khung cảnh tấp nập, nhưng lam lủ, không được phồn thịnh xum xuê như các thị xả, tỉnh thành ở miền Nam mà tôi đả có dịp đi qua.
Ðoàn xe đi sâu vào hướng núi, đến TTHL/Dục Mỷ, nơi huấn luyện, đào tạo ra các chiến sỉ Biệt Ðộng Quân oai hùng, một đơn vị Tổng trừ bị thiện chiến của QLVNCH sau các đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến , nằm ở một địa thế khắc nghiệt cháy nắng của thế đất đồi núi và sỏi đá.
Chúng tôi ngồi trên xe di chuyển mà mặt nóng hực vì nhửng luồn gió “nóng” ập vào, đứa nào mình củng ướt đẩm mồ hôi và lấm tấm bụi cát đất đỏ. Nhìn nhửng người tân binh Biệt Ðộng Quân đang đi bộ di chuyển theo hàng dọc theo hai bên con lộ, đang leo lên nhửng ngọn đồi dốc phía xa xa như bầy kiến đang bò bên dốc.Thế mới thấy thương và cảm phục sự chịu đựng của các người trẻ tuổi Việt nam …
Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay. Tôi nhớ lại hai câu thơ của cụ Nguyển công Trứ,

“Ví thử đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”
thấy chí lý .

Chổ tập diều chỉnh tác xạ Pháo Binh là một khu đất trống rộng . Chúng tôi xuống xe . Nhìn hướng trước mặt xa xa là dảy núi đá không có nhiều cây cỏ . Có lẻ vì nhiều lần thực tập bắn đạn pháo binh đả cày nát cỏ cây …?
Chúng tôi được sắp xếp chia ra từng toán 10 người . Mổi toán có một sỉ quan Huấn luyện viên hướng dẩn để thực tập tác xạ, học cách điều chỉnh cho trái đạn đi xạ gần, về trái, về phải v.v.. Ở quân trường chúng tôi củng đả học lý thuyết và bắn đạn giả trên xa bàn . Giờ mới “thử” đạn thật . Sỉ quan Huấn luyện đưa cho học viên bản đồ địa thế, có những mục tiêu chấm sẳn . Học viên xác nhận điểm đứng của mình, vị trí hướng của cây súng pháo rồi bắt đầu ra lệnh cho bắn .
Ðạn nổ …,nhìn vệt khói để xác định và gọi cho toán đang bắn điều chỉnh lại tầm đạn cho chính xác mục tiêu mình muốn . Giống như trò chơi, một trò chơi hấp dẩn.
Gọi pháo binh tác xạ, là một trong những việc tối cần thiết của người sỉ quan tác chiến .

Những ngày tháng tôi luyện ở quân trường rồi cùng di qua
Sau buổi lể mản khóa, tôi và các SVSQ cùng khoá được gắn lon Chuẩn Úy .
Mọi người nôn nao chọn đơn vị . Khung cảnh như đang buổi chợ đông bài bán “đủ
các mọi mặt hàng” mà đám tân Sỉ quan mới ra trường là những khách hàng đi rảo giá,
chọn lựa. Ðủ các Quân, Binh chủng và các Sư đoàn tác chiến , các Tiểu khu của 4 vùng chiến thuật . Không có đơn vị ngành nghề nào cả.
Nhảy Dù lấy 60 đứa, con số tình nguyện sang binh chủng Nhảy Dù quá đông . Ðể
giải quyết tại chổ, các sỉ quan tuyển binh của Sư Ðoàn Nhảy Dù mượn đở cái phòng học
kế bên sân Vủ đình Trường để khám “dả chiến” . Họ bảo các ông “Tân quan” tuột quần
ra …rồi chổng mông lên cho họ khám ,hể ông nào không có… “lông đít”, hay có “lông
đít le hoe” là bị loại tại chổ . (Tôi không biết các Nử quân nhân Thiên thần Mủ Ðỏ có được khám theo tiêu chuẩn nầy không?!)
Kế đến “Cọp 3 Ðầu rằng” Biệt Ðộng Quân vào cắt ngang danh sách 200 thằng từ
dưới đếm lên, khỏi khám coi gì hết. Thằng nào lẹt đẹt dưới chót, bị “Cọp liếm”, khỏi
phải mắc công chọn đơn vị …
Rồi đến Thủy quân lục Chiến, các Sư đoàn Bộ binh tác chiến của 4 vùng Chiến
thuật .”

Giả từ Quân Trường …buổi chiều lại trời mưa tầm tả.
Tôi với thằng Linh bạn cùng đại đội trở lại barack thu dọn đồ đạc .Hai thằng bẻ đầu đạn M16 ra, lấy thuốc nổ châm lửa cho cháy lên rồi liệng 4 cái “quay chảo” (lon Chuẩn Úy nhìn giống như cái quay chảo) vào đốt cho nó cháy nám đen một chút, cho có vẻ …..bụi bụi ..chớ đeo cặp quay chảo vàng khè, mới tinh sáng chói ra đường ..,không muốn thiên hạ biết mình là lính mới.
Linh chọn về tiểu hhu Ban mê Thuột, “buồn muôn thuở” xa lắc xa lơ …Chẳng đặng đừng nó phải chọn, vì nó ra trường ở thứ hạng củng hơi lẹt đẹt, củng may là không bị “Cọp liếm” . Ngoài các sư đoàn bộ binh 1, 3, 22 ,23 còn tiểu khu Quảng Ngải và tiểu khu “Buồn muôn thuở” . Nó tránh cái xứ Quảng .
Buổi chiều cuối cùng ở Nha Trang, trước khi giả từ phố biển mà chúng tôi ít nhiều đả cảm thấy lưu luyến qua những ngày tháng vui buồn nơi quân trường Ðồng Ðế và những lần cuối tuần đi phép thăm phố phường đó đây …
Tôi với Linh đi bộ dọc theo con đường Duy Tân, nghe sóng biển ào ào trong gió …Cơn mưa chiều chưa dứt hột, còn lấm tấm, rỉ rả đả thấm ướt bộ quân phục và cặp lon Chuẩn úy của tôi và Linh mới vừa được gắn lên ve áo của buổi lể mản khóa ban sáng . Hai đứa tôi đi dưới mưa dọc theo chổ dành riêng cho người đi bộ . Bải biển thưa người, các quán bán nước dừa le hoe vắng khách .
Linh nói với tôi,
Mới vừa đeo lon Chuẩn úy ….mà mình đả dầm mưa, nếm mùi sương gió …Trong tương lai chắc sẻ còn dài dài ..
-Ðương nhiên rồi…thân trai mười hai bến nước mà..,mình phải chấp nhận …Ê Linh ., mầy đi Buôn Mê Thuộc chắc sẻ gặp được nhiều sơn nử... mầy tha hồ mà ăn trái sim..,rồi uống chung bát nước, uống chung rượu Cần với người đẹp cao nguyên …rồi khi tao gặp lại mầy …chắc tao thấy mầy mặc ..xà rong!
Linh trợn mắt nhìn tôi,
-Thôi đi cha …làm gì có chuyện đó …
-Sao lại không ..? Mầy làm sao biết trước được những thay đổi của tâm tư và hoàn cảnh? Tôi nói với Linh .
Linh nói đùa lại với tôi,
-Còn mầy ..về vùng U Minh,Chương Thiện, Bạc Liêu, Cà Mau ..nhớ mang theo poncho, quần áo dài tay để ngừa muổi cắn . Tao nghe nói muổi ở xứ đó to bằng con gà mái …
-Tao đâu có sợ muổi cắn mầy …,tao chỉ sợ con gái xứ đó nó cắn tao …,rồi tao …cắn lại ..rồi tao quên đường về Sàigòn .
Linh tiếp lời,
-Hồi sáng, tao đứng dưới chổ kêu tên chọn đơn vị, thấy mấy thằng chọn đi sư đoàn 21, tiểu khu Cà mau, Bạc Liêu , Chương Thiện...thằng nào vừa chọn xong cha Ðại uy phòng 1 củng nói,
-“Rồi ..xuống đó xem con Gái nó đái ra lửa”…. tao củng không hiểu chả muốn nói gì?
Tôi tức cười cho thằng Linh, nó …”thật thà ngây thơ vô số tội”. Tôi đùa dai với Linh cho vui,
-Cha đó nói đúng đó …,tao củng nghe đồn mấy thằng đi xuống miệt đó thằng nào “chân giửa” củng bị …cháy rụi hết ..
Linh nhìn tôi tròn mắt hỏi,
-Thật hông cha . ..? Mầy …sạo hoài, làm gì có chuyện đó!
Tôi biết thằng Linh nó còn “trinh”, nên hù nó,
-Mầy có biết …”chổ đó” nó …phát nhiệt ..dử dội lắm không?
Linh nhìn tôi cười ỏn ẻn nói,
-Mầy …sạo hoài …thôi mầy ơi! Có biết thì nói cho tao nghe đi ..
-Linh ơi, ta tiếc cho em không gặp ta sớm một chút.
Linh hỏi tôi,
-Gặp mầy sớm …để làm gì?
-Ðể tao dẩn mầy đi …cắt bỏ “cái” của mầy cho rồi …chớ mầy để đó mà không biết xài …để làm gì? Nè ông Quan, nói cho ông biết nè …Cha Ðại úy nói con gái Cà Mau-Bạc Liêu đái ra lửa là gì ở vùng đó nước mặn …ban đêm trời có trăng mà mầy khuấy mặt nước, thì nước văng lên như lân tinh lóe sáng …mầy biết con gái ớ dưới quê, nhà cửa đâu có cầu tiêu cầu tiểu ở trong nhà đâu …hể mắc tiểu tiện là chạy ù ra mấy cái cầu tiêu dả chiến bắt lộ thiên gần mé nước …chịt quần làm đại…,mặt nước bị khuấy động bắn lên có ánh trăng rọi vào sáng rực ..như pháo bông .
Tôi giải thích đại khái cho Linh nghe, Linh như “hiểu ra”, nó trầm ngâm …rồi hỏi tôi thêm một câu nghe “vớ vẩn “ nửa,
-Rồi làm sao.. tụi nó thấy được?
Tôi trả lời Linh,
-Không phải rình .,mà củng gần như rình vậy …Ban đêm tụi nó dẩn lính đi tiền đồn, đi phục kích đêm ..nằm ém ở đó …,người đẹp tự nhiên dẩn xác tới biểu diển cho xem không lấy một xu ..
Linh nghe khoái chí cười thoải mái …..

Ði dọc theo đến cuối con đường Duy Tân, tôi và Linh quẹo sang đường khác.
Tìm được một quán phở, hai đứa thay phiên nhau xin vào phía sau cới áo ra vắt nước rồi trở lại bàn ăn thưởng thức tô Phở nóng hổi .., nhâm nhi cà phê sửa nóng và phì phà khói lửa .Linh ngồi nhìn tôi nhả khói vừa kể chuyện tiếu lâm cho nó nghe, nó khoái chí cười toe toét .
Chia tay với Linh, hai đứa hẹn gặp nhau ở xóm củ khi chúng tôi về lại Sàigòn.
Tôi có một người bạn cùng đại đội, chọn qua binh chủng Nhảy Dù tên Cường . Cường có người thân làm ở cơ quan Usaid của Mỷ ở Nha Trang xin cho tôi với Cường 2 chổ đi phi cơ của cơ quan Usaid về Sàigòn .Tôi nhờ Cường hỏi dùm cho thằng Linh, nhưng không được .Linh phải đi xe đò về Sàigòn .
Tôi ghé qua Bưu Ðiện Nha Trang gọi điện thoại cho người chị của tôi, cho biết tôi về Sàigòn bằng phi cơ và đón xe Lam đi về nhà vào lúc chiều ngày kế .
Tôi và Cường đến ngủ nhờ nhà người họ hàng của Cường, để chờ hôm sau đưa ra phi trường lên phi cơ bay về Sàigòn .

Phi cơ cất cánh và từ từ lên cao độ .. ., tôi nhìn qua khung cửa sổ, thấy thành phố Nha Trang xinh đẹp, có bải cát mịn màng trắng tinh và nước biển trong xanh thơ mộng. Xa xa tôi trông thấy dảy núi Ðồng Ðế, trên chót vót đỉnh núi có tượng thằng “Cù Lần” nhỏ xíu, vẩn đứng ở thế,
“Anh đứng ngàn năm thao diển nghỉ”
và chập chùng những ngọn núi bên dưới có đường nốc nhìn giống như hình dáng của một người thiếu nử đang …
“Em nằm xỏa tóc đợi chờ anh ”.
Quân trường Ðồng Ðế
Phạm anh Dủng K10B/72















Saturday, June 28, 2008

Nhap Cuoc


NHẬP CUỘC

Rồi cũng xong những nắng mưa gian khổ
Đã xa rồi thời ứng chiến, gát đêm
Ngày mai rực ánh hồng trên quang lộ
Vung gươm thiêng, khua ánh thép vang rền.

Mang hào khí của bao đời lịch sử
Súng trên tay nhập cuộc với binh đao
Bạn và tôi theo gương của anh hào
Mang tuổi trẻ dấn thân vì sông núi.

Bước giang hồ sá gì thân gió bụi
Gánh quê hương chia xẻ với Cha, Anh
Dường như có tiếng Người xưa vang vọng
Gọi Ta đi theo từng bước quân hành.

Rồi cũng đến lúc lìa xa Trường Mẹ
Bạn và Tôi dong ruổi bốn phương trời
Thanh kiếm bạc vẻ trang đời Bạn nhé
Cho vầng dương muôn thuở rạng trùng khơi.

Chào Đồng Đế, Nha Trang. Ta nhập cuộc!
Chào đêm mưa, sương muối, nắng quân trường.
Bạn cùng tôi lên đường vì đất nước
Mang hùng tâm tuổi trẻ đến biên cương.

HUY VĂN
(Nha Trang 28-08-1973 )

Thursday, May 22, 2008

Thieu Tuong Nguyen Khoa Nam



Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.

Nguyễn Khoa Nam, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1927 tại Đà Nẵng. Năm 1953 ông nhập ngũ Khóa III Thủ Đức và gia nhập binh chủng Nhảy dù vào tháng 10 cùng năm.

Từ 1955-1964, Nguyễn Khoa Nam mang lon đại úy.

Năm 1965 ông lên thiếu tá, giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.

Năm 1967, Nguyễn Khoa Nam thăng cấp trung tá và được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng của Lữ đoàn 3 Nhảy dù. Cuối năm này ông được thăng đại tá.

Năm 1969 ông được cử giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. Tháng 11 cùng năm ông được thăng chuẩn tướng.

Năm 1972 ông được thăng thiếu tướng.

Tháng 11 năm 1974, Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ông tự sát vào khoảng rạng sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.

Nguyễn Khoa Nam được xem là một người sống nội tâm, kín đáo, giản dị; một Phật tử thuần thành; một quân nhân thuần túy không xen vào chính trị, không bị tai tiếng tham nhũng và được binh sĩ yêu mến.


Hồi Ký:
Thương tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam

--------------------------------------------------------------------------------

Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời cựu SVSQ khóa III Thủ Ðức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khoa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam, người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng ! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Ðức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. Ðến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệm, đó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chổ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh.

1. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Ðà Nẵng) ngày 23 tháng 9 dl năm 1927.

Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sàigòn. Anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Ðà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương.

2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường Ecole des Garcons thành phố Ðà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Ðịnh và ở nội trú. Anh đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Ðến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Ðệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế, năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Ðức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.

3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sàigòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam, chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau, chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Ðức.

Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó.

Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thi không thay đổi được.

Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sàigòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Uùy. Tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không? Anh cười và nói "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm". Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.

Năm 1955, anh làm Ðại Ðội Trưởng thuộc TÐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sàigòn. Sau đó anh được thăng Ðại Úy và Sư Ðoàn Dù cử anh đi học kỹ thuật ở PAU (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Ðua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-75. Thật ra thì ít khi về đây phần lớn thời gian ở trong đơn vị, và lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.

Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Ðại Ðội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang Ðại úy từ 1955-1964, qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Ðoàn trưởng TÐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá.

Từ lúc nắm TÐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TÐ5ND tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 22 Bộ binh tổ chức anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tấm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng trường Trung học Ðệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi.

Ðây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá, vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ". Lần đó, anh được ân thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Sau đó tháng 5 năm 1966, TÐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.

Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Ðoàn Trưởng LÐ3ND. Lữ Ðoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Ðại Tá với Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Năm 1968, LÐ3ND về Sàigòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Ðô Thành Sàigòn Chợ Lớn.

Năm 1969, được cử giữ chức Tư Lệnh SÐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Ðến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng thực thụ.

- Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức.

- Tháng 10 năm 1973 được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.

Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sàigòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nữa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000$ tiền Việt Nam. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.

Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.

Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sàigòn về Cần Thơ xin hốt cốt lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning, bộ xương đã được thiêu liền khi đó, khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình sứ, đem về Sàigòn ngay hôm đó.

Vài ngày sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lam với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lam, đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Ðịnh.

Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi cách xa nhau.

Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.

Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì.

Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SÐ7BB, có một lần một vị Thượng Tọa đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp, các Cha, các Thầy cũng vậy thôi.

Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ; hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc Trung học, đã là một Họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bầy ở Triển lãm, trong các năm tản cư 1946-1947 suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá.

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo, ông luôn luôn lầm bầm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.





Hồi Ký:
Những Kỷ Niệm Gia Ðình Với Tướng Nguyễn Khoa Nam
Nguyễn Thái Dương

--------------------------------------------------------------------------------

Rời quê hương đã 25 năm mà hình ảnh cậu tôi thỉnh thoảng vẩn hiện về trong giấc ngủ chập chờn. Những ký ức về cậu tôi như là một bức tranh chấm phá. Cậu như là một thế giới riêng đối với tất cả mọi người.

Còn nhớ lúc tôi khoảng 6,7 tuổi, gia đình ông ngoại chúng tôi ở bến đò Chợ Dinh. Nhà trên dành cho ông ngoại còn tất cả ở những căn nhà dưới. Gần đó là chùa Bà La của dòng họ Nguyễn Khoa. Là cháu ngoại đầu tiên, được ông ngoại cưng nhất. Thỉnh thoảng ông bảo mẹ tôi đưa lên nhà trên để ông cho ăn vài món dành cho ông. Cạnh nhà là một cây mộc lan rất lớn, đến mùa cả trăm cánh hoa nở ra thơm ngát cả vườn. Sau nhà là một vườn cam quít rồi đến một thửa đất rộng trồng bắp, sắn, rau cải tùy mùa. Cạnh sông là một nhà chòi cao mà trong những trưa hè nóng nực, mấy cậu cháu chúng tôi thường leo lên ngủ trưa để hưởng gió mát từ sông thổi vào.

Vào khoảng năm 51, chúng tôi dọn lên nhà số 64 đường Gia Hội, sau này đổi tên là đường Chi Lăng, ngay lối đi vào đường Trung Bộ. Cậu lúc này đã đi làm việc trong thành nội. Cậu giống như một ông công tử đất Thần Kinh, luôn luôn mặc đồ bộ màu trắng và đặt cơm từ nhà hàng Morin. Cũng giống như ông ngoại, thỉnh thoảng cậu gọi tôi vào cho thưởng thức vài món ăn Tây. Trong vòng gia đình, ngoài cậu còn có anh Hiệp và anh Cẩm. Anh Hiệp là con bác Kinh, người anh kết nghỉa với ông già tôi. Anh Cẩm là chồng chị Yến, con của cậu Sỉ. Anh Hiệp đi Thiết Giáp, anh Cẩm chọn Pháo Binh. Sau này, cả ba đều trở thành những tướng lảnh của QLVNCH.

Mãn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, cậu tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Vài người trong gia đình nói rằng đúng ra cậu là một nghệ sỉ hơn là quân nhân. Cậu có khiếu về hội họa, vẻ truyền thần và phong cảnh rất xuất sắc. Cậu cũng có khiếu về âm nhạc và giỏi về ngoại ngử, cả Anh và Pháp. Nghe nói cậu có yêu một người đẹp nhưng về sau người này đi Pháp lấy chồng bác sỉ, từ đó cậu không lập gia đình với ai cả. Trong tranh vẻ của cậu có phảng phất hình bóng của cô này. Có lẻ đây cũng là một vài huyền thoại trong cuộc đời của cậu.

Trong khoảng thời gian cuối 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước, cậu chỉ huy một đơn vị nhảy dù tham dự các cuộc hành quân ở Bắc Việt và trở về Nam sau hiệp định Genẽve.

Năm 62, sau khi tốt nghiệp trường Sỉ Quan Hải Quân Nha Trang, lên thăm cậu tại Sài Gòn, cậu nói: "Ðúng ra ngành Bác Sỉ thích hợp với mi hơn, để cậu nói với ông Quyền xem ông có thể giúp mi đi học Quân Y được không?" Cậu thường dùng chử "mi" của người Huế khi gọi tôi. Cậu là bạn học của HQ Ðại Tá Hồ Tấn Quyền lúc đó là Tư Lệnh Hải Quân. Tôi cũng chẳng để ý đến chuyện này cho lắm. Sau đó Ðại Tá Quyền là người đầu tiên bị đàn em sát hại trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vào cuối năm 63.

Cậu ở trong cấp bậc Ðại Úy khá lâu. Vài người nói rằng là Sĩ Quan Nhảy Dù mà cậu rất ít nói, cũng không ăn nhậu với bạn đồng ngũ nên đôi khi bị hiểu lầm từ cấp chỉ huy cũng như bạn bè.

Ðến năm 66, hai cậu cháu có cơ hội gặp nhau ở Ðà Nẵng lúc cậu chỉ huy Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang hành quân tại Quảng Ngãi.

Sau trận chiến thắng lẫy lừng của Lử Ðoàn 3 Nhảy Dù tại đồi Ngọc Văn, Kontum mà các anh em nhảy dù nói đùa là đồi Ngóc Văng, cậu được Tổng Thống Thiệu cho lựa chọn một trong 3 chức vụ: Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia hay Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Cậu nói rằng Sư Ðoàn 1 của Thiếu Tướng Trưởng quá xuất sắc, không thể làm hơn đưọc, vả lại ở Huế nhiều bà con quá còn ngành Cảnh Sát thì không thích hợp với mình. Với Sư Ðoàn 7 mình có nhiều cơ hội hơn. Cậu đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh kể từ 1969.

Hai vợ chồng tôi có xuống thăm cậu ở Ðồng Tâm vào đầu năm 70, cậu bảo ra ngoài dinh Tư Lệnh tại Mỷ Tho mà ở. Ông Thượng Sĩ quản gia mừng rỡ khi có khách: "Ông Tướng ít khi tiếp bà con, thỉnh thoảng mới ra Mỹ Tho một lần".

Cuối năm 1971, tôi được thuyên chuyển về chỉ huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân trong nhiệm vụ yểm trợ cho hai Trung Ðoàn 11, 12 Bộ Binh hoạt động trong khu vực Mỹ Tho và Kiến Hoà sau hơn một năm chỉ huy Liên Ðoàn 3 Thủy Bộ yểm trợ cho Trung Ðoàn 32 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh trong chiến dịch U Minh. Cậu do dự khá lâu vì không muốn tôi ở gần cậu. Thỉnh thoảng, cậu gọi tôi qua phòng hành quân Sư Ðoàn vào buổi tối. Hai cậu cháu có dịp nói chuyện gia đình cũng như những lời chỉ bảo. Cậu thuờng dặn dò: "Mi còn trẻ, ở đơn vị chiến đấu nhiều, tương lai tốt, đừng để dính vào những chuyện rắc rối".

Một câu nói mà tôi vẩn còn nhớ mãi đến ngày hôm nay. Khi nói chuyện về tham nhũng, cậu trầm ngâm nói: "Trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, mình không tham nhũng không có nghĩa là đàn em mình không tham nhũng, nhưng họ chỉ làm ăn vừa đủ sống. Nếu mình tham nhũng thì họ phải ăn gấp ba: một cho họ, một cho mình, một cho xếp mình. Bổn phận của cấp chỉ huy là phải giữ mình trong sạch". Tôi nhớ lại thời gian còn hành quân ở Cà Mâu, trong một lần mời Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh và Ðại Tá Thiều dùng cơm ở Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, hai ông thầy tranh luận về vấn đề tham nhủng. Phó Ðề Ðốc Minh cho rằng miền Nam không thắng được Cộng Sản là vì tham nhủng. Ông chỉ cần độ mười ngàn người trong sạch cùng lý tưởng là có thể đánh bức được Cộng Sản. Ðại tá Thiều cưòi trả lời nhẹ nhàng: "Bạn nói đúng trên lý thuyết. Trong thời chiến tranh, chỉ sống nhờ ngoại viện, một người lính hay cảnh sát lương chỉ đủ sống mươi ngày. Nếu không kiếm chác thêm để nuôi vợ con thì họ đói hết chẳng còn ai để đánh Cộng Sản". Tôi chỉ biết ngồi cười không góp ý kiến. Cả hai ông thầy đều đúng trong một vài khía cạnh nào đó.

Thỉnh thoảng nhận được trợ cấp từ Phủ Tổng Thống, cậu chia hết cho các Trung Ðoàn. Trong những lần hành quân phối hợp, vài vị Trung Ðoàn Trưởng nói đùa rằng tiền ông Tưóng cho ít quá, không biết thế nào chia cho đàn em.

Cậu ở trong một trailer đơn giản do Quân Lực Mỹ để lại và hầu như ăn chay trường. Hàng tháng cậu đều gởi tiền về cho mẹ tôi. Thỉnh thoảng bà già vợ xuống Ðồng Tâm thăm chúng tôi, bà thường nấu đồ chay mời cậu. Cậu thường nói: "Mình ăn chay để đở chết lính".

Cũng trong thời gian này, có dự tính giới thiệu một người bà con của bà Tổng Thống cho cậu. Tôi hỏi cậu chuyện này. Cậu cười: "Làm bà con với Tổng Thống thì khó làm việc lắm".

Có vài điều mà khi còn ở Việt Nam, tôi không muốn chia xẻ với cấp chỉ huy. Mỗi lần có đoàn công voa Cửa Tiểu - Nam Vang là có lệnh điều động từ phòng hành quân Sư Ðoàn qua Kiến Hòa phối hợp với Trung Ðoàn 12, bỏ trống sông Tiền Giang cho dến khi đoàn công voa đi qua khỏi khu vực hoạt động của Sư Ðoàn. Cậu chỉ nói thoáng qua về những hoạt động tình báo chiến lược có từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm với sự phối hợp của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan. Những hoạt động này đòi hỏi ngân sách riêng không thể phổ biến đưọc.

Ðây là khoảng thời gian thoải mái nhất trong đời binh nghiệp. Sự liên hệ với cậu đã giúp tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, giữ được sự trong sạch của mình mà không đụng chạm đến chuyện người khác. Tuy nhiên, đến cuối năm 72, một sỉ quan đàn em có gốc gác ở Mỷ Tho gặp tôi ngỏ ý hoán chuyển về Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức. Thấy mình ở chức vụ cũng khá lâu, tôi nói cho cậu biết ý định của mình. Cậu chỉ mỉm cưòi không nói năng gì hết. Tôi về Hạm Ðội thay vì Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức do trục trặc kỷ thuật tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Rời Mỷ Tho được mấy tháng là xảy ra vụ còi hụ Long An mà báo chí thời đó có cơ hội tấn công chính quyền về vấn đề tham nhũng và buôn lậu. Vài anh em trong Hải Quân nói đùa rằng tôi đẻ bọc điều, vụ gì cũng tai qua nạn khỏi nhưng họ không biết rằng những chịu đựng mà tôi phải vượt qua vì đưòng binh nghiệp của mình. Vài lần nói chuyện phiếm với anh em: "Trong thời tao loạn, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết nhiều khi cũng ngất ngư".

Về Hạm Ðội được gần một năm thì lại được biệt phái ra Ðà Nẵng cùng với HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc vì tình hình sôi động tại Hoàng Sa. Sau khi Hoàng Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm, tôi được chuyển qua làm Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội I Duyên Phòng. Có vài nguồn tin nói rằng Hải Ðội sẽ là đơn vị đầu tiên đưọc trang bị các PTF nhưng sau đó mọi chuyện im luôn. Cậu vẫn tiếp tục dặn dò: "Mi ráng cẩn thận, Ðà Nẳng không khác gì Vũng Tàu, Mỷ Tho đâu". Vụ buôn lậu Mỹ Khê xảy ra sau đó, lại một lần lao đao.

Cuối năm 74, được tin cậu đuợc bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV kiêm Vùng 4 Chiến Thuật trong khi ở Vùng 1 những biến chuyển dồn dập báo hiệu ngày tàn của cuộc chiến càng ngày càng đến gần. Tôi qua năn nỉ riêng Ðại Tá Thiều cho sửa tất cả các chiến đĩnh của Hải Ðội.

Ðà Nẵng hỗn loạn trong trong những ngày cuối tháng 3 và sau cơn mưa pháo vào Tiên Sa đêm 29, Quân Ðoàn I cũng như Vùng I Duyên Hải xem như tan hàng. Trong những ngày cuối cùng ở Vũng Tàu sau khi di tản từ Ðà Nẵng và Cam Ranh, với tâm lý hoang mang và chán nản đến cùng cực, tôi cố gắng liên lạc lần cuối với cậu xem cậu có đồng ý để tôi về Cần Thơ không. Cậu chỉ cho một Sỉ Quan nhắn tôi cứ ở Vũng Tàu. Có lẻ cậu đã nhìn đưọc ngày tàn của cuộc chiến và những điều bất hạnh sẽ giáng lên đầu quân dân miền Nam.

Qua Hoa Kỳ đang ở trại tỵ nạn thì những người qua sau cho biết cậu đã tự sát để khỏi đầu hàng địch quân. Cậu cũng như vài Tướng Lảnh khác của miền Nam đã chọn cái chết để giữ tròn khí tiết của người tướng không còn giữ được thành. Dù rằng với một Quân Ðoàn IV đang còn nguyên vẹn, cậu đã không ra lệnh tử chiến để cứu sanh mạng của hàng trăm ngàn quân dân vô tội.

Trong thời gian về Việt Nam làm việc cho một dự án tài trợ ngắn hạn, tôi thường lên chùa Già Lam ở Gò Vấp thắp vài nén hương trước bàn thờ thân phụ tôi và cậu. Nhìn nét mặt nghiêm trang của cậu trong bộ quân phục Nhảy Dù, những kỷ niệm gia đình lại hiện về trong tâm tưởng. Cậu vẫn sống mãi trong lòng quê hương và dân tộc.

Nguyễn Thái Dương
30/4/2000

Dai Ta Ho Ngoc Can



Hồ Ngọc Cẩn (24 tháng 3 năm 1938 - 14 tháng 8 năm 1975) là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng biệt động quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 bộ binh. Chức vụ cuối cùng lúc bị phía cộng sản bắt là đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện (tỉnh lị là Vị Thanh nay là tỉnh lị tỉnh Hậu Giang). Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng đối phương vây bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.

Thiếu thời

Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại miền tây. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc gia Việt Nam. Thuở nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường thiếu sinh quân. Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 7 trường thiếu sinh quân như sau:

Trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu, ở Gia Định

Trường thiếu sinh quân đệ nhị quân khu ở Huế

Trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu ở Hà Nội

Trường thiếu sinh quân Móng Cái dành cho sắc dân Nùng

Trường thiếu sinh quân đệ tứ quân khu ở Ban Mê Thuột

Trường thiếu sinh quân Đà Lạt của quân đội Pháp

Trường thiếu sinh quân Đông Dương của quân đội Pháp, ở Vũng Tàu

Ông được thu nhận vào lớp nhì trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho.

Khi Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu di chuyển từ Hà Nội vào, sát nhập với trường đệ nhất quân khu ở Mỹ Tho. Niên học 1954-1955, trường bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Ông học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt văn là ông Nguyễn Hữu Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào mà ông lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của ông được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của ông chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi.

Binh nghiệp

Năm 17 tuổi ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, về vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau ba tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.

Theo quy chế dành cho các thiếu sinh quân thời đó, một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau ông là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.

Chiến tranh tại miền Nam tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ quốc phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Ông được nhập học và tốt nghiệp khóa sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy.

Sau khi ra trường, ông theo học một khóa huấn luyện biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 42 biệt động quân "Cọp ba đầu rằn". Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương Thiện, Sóc Trăng (Ba Xuyên), Bạc Liêu, Cà Mau (An Xuyên). Nhờ tài chỉ huy thiên bẩm và chiến đấu gan dạ nên ông được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận lên đến trung úy và được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 42.

Cuối năm 1966, ông từ biệt tiểu đoàn 42 biệt động quân đi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 thuộc sư đoàn 21 bộ binh. Suốt năm 1967, ông với tiểu đoàn 1 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh vùng sông Hậu. Sau trận tổng công kích Mậu Thân, ông được thăng thiếu tá. Năm 1968, ông là người có nhiều huy chương nhất quân đội.

Năm 1970, ông được thăng trung tá và rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9 bộ binh. Năm 1972, ông được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An Lộc. Cuối năm 1973, ông được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện.

Trận chiến cuối cùng


Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.

Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu. Các đơn vị quân cộng sản tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cuối cùng ông bị bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội vừa nêu ra không thì ông trả lời như sau:

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".


Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về ... và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa ... mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.


NGUYEN HUY HUNG

Thieu Tuong Le Van Hung

Chuẩn tướng Lê Văn Hưng (Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Vùng IV Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà), là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.

Sau khi tốt nghiệp khóa 5 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 1 năm 1955, Lê Văn Hưng trải qua các chức vụ các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tại chiến trường miền Tây Nam bộ

Năm 1966 ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 31 bộ binh. Thời gian này Lê Văn Hưng được các phóng viên chiến trường gọi tặng là một trong năm ngũ hổ U Minh Thượng

Năm 1968 ông thăng Trung tá giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 Bộ Binh.

Năm 1971 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh

Năm 1972 ông được thăng cấp chuẩn tướng giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3.

Năm 1973 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh,

Năm 1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4, sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả binh sĩ bảo vệ bộ chỉ huy, người được gọi là " Anh hùng tử thủ An Lộc " do những chiến tích trong Trận An Lộc đã tự sát bằng súng lục vào lúc 20 giờ 45 tối.



"The Final Day of My Husband's Life" April 30, 1975

By Pham Thi Kim Hoang (General Hung's wife) Translation by Tran Thi My Ngoc and Larry Engelmann

My husband was stationed in the Delta in Can Tho in the spring of 1975 where he was vice commander for Military Region IV (MR IV) under General Nguyen Khoa Nam.

In March, when the North Vietnamese Army attacked Ban Me Thuot, I was in Bien Hoa My husband contacted me during the battle and he told me to move to MR IV. He said the Communists would march on to MR III[Which included Saigon] from Ban Me Thuot and he did not think that MR III would be able to resist them. It was because of that I moved to MR IV with my husband.

My husband knew all along that the American government would abandon us. He knew it. He had no faith in them.

I had our two small children with me at Bien Hoa at that timeï And my husband told me that I had to hurry and move to MR IV because the National Road 4 linking Saigon with the Delta would be cut soon because Saigon and Bien Hoa would be lost to the communists for sureï

So on the 2nd of April 1975, I left for Can Tho by car. I stayed in a house near the corps commanders headquarters in MR IV.

After the fall of Ban Me Thuot, General Pham Van Phu(Commander of MR II where Ban Me Thout was located) was isolated and he could accomplish anything. And the same is true for General Ngo Quang Truong in MR I(the area including the northernmost provinces of South Vietnam and the cities of Danang and Hue). He could not do anything at all. As for General Nguyen Van Toan in MR III(the area around Saigon) and Cao Van Vien, the chairman of the Joint General Staff, my husband had no faith in them and he did not trust them. One need only to look at Toan's character and his military life experience and one just can't have any faith in a man like that or have any hope in that person.

My husband knew that Saigon would fall because after the loss of the other two regions, MR I and MR II, because there was no able leadership left in the military. Seeing who was in charge in Saigon, he concluded that Saigon could not hold out. So, military and political survival meant retreating to the MR IV region and establishing an enclave there, but even that could not hold out for long all aloneï

To tell you the truth and be fair, in 1975, the number of people in the South who were really honest and who were ready to fight against the North Vietnamese was negligible and very few of the country's leaders could be trusted. There were some members of the Hoa HaAË), for example, who came to my husband and expressed their willingness to fight against the communists. They asked my husband to provide them with arms and ammunition. My husband, however, was unsure of their reliability and he suspected there might be treachery by this group once he gave them supplies.

Then, on April 21, 1975, President Nguyen Van Thieu resigned and handed over the government to Mr. Tran Van Huong. I remember still the worlds of Mr. Thieuï "Losing a President Thieu, the military still has a three-star General Thieuï The people still have a soldier, Nguyen Van Thieuï I pledge to fight side by side with my brothers, the soldiers."

Thieu's announcement moved me very much. But then his wordes became meaningless when the high-ranking commanders, who directly ran the working machinery of the government and the military, ran away to seek safety for themselves and their families and friends and at the same time abandoned their own countrymen just as wewere being caught up the final bloody hurricane of the war.

News of the loss of MR I, II and III arrived in Can Thoï We learned that there were places where no fight took place, important places abandoned to the enemyï Yet there were also a few places where intense and determined fights were waged to the last man. But too often the losing troops ran for their lives like a colony of ducks being hunted. The army became confused and demoralized. President Thieu, Prime Minister Tran Thien Khiem, General Cao Van Vien, ran like scared rabbits and left the country to others. So, who was left to fight? The soldiers who remained watched their commanders fleeï Who was left to lead them? The soldiers began to whisper among themselves, "For all of these years we have been fighting for our country or have we been fighting for a horde of corrupt individuals?."

Without the commanding generals, the troops were like a snake without a head, all broken up and in disarray. And there was this question: "If the soldiers have no commanders, then what will happen?" The soldiers started asking, "What do the generals know about fighting in battles? It is the soldiers who fight and the generals who reap the benefits." Those comments came from unhappy and dissatisfied elements and they were from the point of view of observers who were like frogs sitting in the bottom of a well -- they could see only a very small part of the developing situation.

When my husband heard that President Thieu had resigned and said he would stay in the country, he knew right away that Thieu would flee from the country, no matter what he said. And Thieu did. My husband also knew that the whole Thieu administration would flee from the country and they did. But my husband made the decision to remain in his country. And he did.

How did my husband know these things? How could he predict? He could do so by looking at the past activities of these people and looking at their record. Everything was there -- the answers were all there already. They lacked character.

When President Tran Van Huong resigned and as General Duong Van Minh took control of the government, my husband knew that there would be no peace settlement and that there would not be any last- minute agreement between the North and the South. There were rumors of what General Minh might do to stop the advance of the North Vietnamese Armyï There were rumors that he would arrest all of the generals in the armyï But my husband was not afraid of General Minh or the rumors like this.

Despite the chaotic situation in Saigon and in the nearby regions, MR IV was relatively calm. And the reason for its calmness was because of the calmness generated by the leaders of the region --leaders like General Nguyen Khoa Nam and my husband.

As the leaders of the region, they decided not to flee, not to run awayï And therefore, the personnel under their command did not want to flee either. There was, of course, a small number who did try to escape and ran awayï This is always trueï

You need to know also that as soon as the central highlands were lost to the communists, I myself made the decision that I would not leave the country. My husband never asked me to leave and never told me to leaveï And I decided for myself even before then, that I would not leave because I knew that my husband would never leave the country. And I made up my mind to stay and die, if that should be our fate, together.

On the 29th of April on the radio Prime Minister Vu Van Mau and President Duong Van Minh broadcast on the Voice of Saigon ordering all Americans to leave Vietnam within 24 hours. It was at that time that the secret plan for military operations by Generals Nam and my husband were finalized.

In those last hours of the Saigon regime, General Nguyen Huu Hanh, the replacement for General Vinh Loc (Chairman of the Joint General Staff) during the last day, made countless phone calls to Can Thoï He tried to persuade my husband to cooperate with General Minh and to surrender. He stressed the concepts of military brotherhood and comradeship.

But my husband suspected that he was merely examining the attitudes of the two commanders of MR IV. Many times during his telephone conversations with General Hanh, my husband was decisive and said that he would not cooperate with Minh and he would not surrender to the communists and he would fight to the death.

On April 30th, General Duong Van Minh surrendered the country to the Communists unconditionally. Remember that General Duong Van Minh twice destroyed(Minh headed the coup against President Ngo Dinh Diem in 1963 and ordered the murder of Diem and his brother) the country and had stained its history and lowered himself down to sign his name to a treacherous document that offered his country to the enemyï I heard Duong Van Minh's unconditional surrender speech to the North over the radioï When Duong Van Minh declared his surrender of South Vietnam to the Communists a number of soldiers just left the military and went homeï

But I remember now still the large number of officers and soldiers who broke into tears when they heard the surrender announcement from General Minh. They embraced the flag and they kept their weapons and they cried.

Prior to the surrender my husband and General Nam, made contigency plans. They decided to stay in MR IV and fight. And even should Saigon fall, they and their troops would withdraw into the secret hidden areas in the jungles() of the Delta region.

The plan to withdraw into the jungle areas was made before General Minh surrendered. However, they were kept secret and only a very few people knew about it. My husband and General Nam still carried out their duties and continued to make plans for regular military exercises and operations. The plan to retreat into the hidden areas was made and ready to be executed at the proper moment. My husband and General Nam never thought they would receive any military aid from the US Government. And so in order to carry out their plans they never planned on it and they never even considered it.

General Nam and General Hung were three times offered a chance to evacuate by their American advisor. And they refused each of the three times. They decided not to abandon their men and their country but to stay and defend it to the death. Their American advisor continued to prod them, but finally he left in desperation and in sadness.

The plan for a secret operation in the Delta was now readyï Weapons, ammunition and food were prepared. All was readied for the troops to be directed and redeployed in new zones. The plan of moving the troops was code named Operation LINKING HANDS.

Military Region IV had good strategic points and an army there could continue the fight alone for a long timeï By the 29th of April there was not a single stronghold in any remote part of that countryside or any town that had yet fallen into the hands of the NVA or the VC.

But in Can Tho, in the early morning of April 30, 1975, people were in a confused and frightened stateï What led to the collapse of morale in Can Tho was that there was an infiltrator from the Communists in the radio station and instead of broadcasting the order of General Nam, that everybody was supposed to stay put and fight, they broadcast the message from General Minh telling everyone to surrender and to lay down their arms. So people became disoriented and didn't know what to do and many became pessimistic. Some of the military people deserted. Right in the town the saddest scene of chaos took placeï Some criminal elements seized the uncertain occasion to loot the properties of the American offices and buildings and disregarded the warnings shots of the police who tried to maintain order and safetyï The civilians fled. Some people were paralyzed by fear and they sobbed and screamed and other people looted and destroyed like a bunch of madmen.

There must have been a number of fifth column people in the crowd who tried to create disorder and to terrorize the people and to destroy the morale of the soldiers.

The plans for Operation LINKING HANDS were kept secret and only a few close staff members of my husband and General Nam were aware of them. The other people under their command were not told of the plan because there existed at that time an atmosphere of mistrust among the officers and others in the military.

The withdrawal was planned to begin at noon on April 30th, 1975. The troops would be withdrawn into the secret hidden areas of the jungle at that timeï However, before that time, my husband gave the orders to begin the troop redeployment to the colonel who was chief of the security officeï The colonel was supposed to relay the orders to the troops but this colonel delegated this direct responsibility to his captain and then took off with his family and fled the country. And so what happened to that captain? Nobody knows? He just disappeared tooï He left. His commander fled the place so naturally he did tooï But we did not know that yet.

The order to begin Operation LINKING HANDS was issued. But then when contacting the commanders of the units in the area, we found out that they did not know anything about the plan. They had not readied their troops as they should have done in the morning. When we tried to locate the colonel who was in charge of distributing maps and orders for the secret redeployment of the troops, we realized that this officer had taken his family and ran away after passing the duty to his captain and the captain had disappeared right on the heels of his commander. And all of the maps and the orders for the Operation LINKING HANDS had disappeared with them.

General Nam and Hung were filled with anger, frustration and disappointment. Their feelings cannot be described adequately with my words. As for myself, I cannot help but cry today when I remember the torn expression and the pain and the disappointment that showed on my husband's face at the moment when he realized that the plan to fight was hopeless. The lines of veins appeared in his forehead and his teeth were clenched. He expressed his deepest and utmost inner pain upon hearing the news of the treachery.

He pounded on his desk. The careful and well-arranged plan was now suddenly foiled because of an act of betrayal and cowardice.

My husband lifted his eyes to look at me and he said, "Victory is what we have always aimed for. But what if we fail? Then what do you want to doû"

I responded, "Then we will all dieï Our children do not want us to be in the hands of the communists either. I will stay with youï I will not abandon you in this moment of disappointment."

And to deflect the possibility of being captured and falling into the hands of the enemy, I methodically and calmly planned for the death of my children -- the final rescue of all of us.

A small number of pessimistic people who who only thought of themselves, and who did not want to fight, were thereï But the others, who were close to my husband and to General Nam, those who were trustworthy, stuck close by and said they would follow the generals' orders.

Let me tell you about this thing first. My husband and General Nam planned all their military operations from their headquarters building. My husband divided this place into two sections. One was where General Nam planned the military events. And the other section my husband designated as the secondary headquarters. It was to this place that my husband called me to tell me of the betrayal by his colonel. And as soon as he heard of the betrayal he developed new plans and discussed them with General Nam.

At 4:45 PM that day my husband left his office at the corps headquarters to return to the headquarters office where we lived temporarily. The reason he returned home on that day was because there was a rumor that the representatives of the communists would come in and sit down with General Nam to demand his surrender and to ask him to sign over the troops and the region. My husband did not agree to this. And he did not want to witness this event and so he returned homeï He did not wish to witness the shameful transfer between 2 star General Nam and the Major Hoang Van Thach of the Viet Cong.

At 5:30 PM my husband radioed to General Mach Van Truong to order him to deploy two units of tanks to protect the Command Office of the 21st Division. After that he contacted other troops that were still fighting in various other nearby areas. At that time, alongside national road number 4 from Cai Lay and My Tho to Long An, there was heavy fighting going on. Along this route, fighting continued until May 2nd, 1975. Very heavy fighting.

My husband called a meeting of his officers for 6:30 that evening. But at 6:30 when all these officers had arrived at the gate there were also ten townspeople already standing there waiting.

They asked to meet with General Hung in the name of representatives of the people of Can Thoï They then made their request. "We know that General Hung will never agree to surrender. But we beg of you not to counterattack. With only your order of counterattacking, the Viet Cong will shell the town. Can Tho then will be destroyed completely, just like the ruins of An Loc[which General Hung had successfully defended in 1972]. Please, for whatever the fate of our country is as such, please General, for the sake of the people and their lives, please put away your daring and proud spirit." They said that it would be better to accept shame and to bear shame than to go on fighting, killing and dying.

Listening to them, I felt both pain and discomfort. I was not surprised at their request because just one week earlier, the Viet Cong had shelled heavily in the area of Can Doi, creating a great loss of life and property. The people of Can Tho were still horrified that the same thing would happen to them.

My husband was expressionless as he listened to their request. It took a long time and he forced a smile and replied, "Please be at easeï I will try my very best to minimize the loss and damage for our peopleï"

When this group left, my husband turned to me and said, "Do you remember the story of Mr. Phan Thanh Giang? When three eastern provinces were lost, he had to bend himself to let go of three more western provinces to the French because of his care for the peopleï He could not bring himself to make the people suffer and he could not let himself lose his proud spirit or his hands in surrender, for this act would bring shame to his country and his soldiers. He then went on a fast and took poison to end his lifeï

"I would rather die than to have my hands tied and watch the invasion of the Vietcong."

Because the people came forward to make that request and said they were the representatives of the local population of Can Tho, my husband could not refuse them. They made the request on behalf of the people themselves and not on behalf of the communists. They made the request as the people, so my husband did not want to hurt them and so he decided to honor their request.

At 6:45 PM General Nam called my husband to check the situation in various places. My husband told Nam of what the representatives of the people of Can Tho had requested. Hung also let Nam know that the newest secret order would be given to a trusted person to be distributed.

General Nam said to Hung that he had recorded a message to the people of Can Tho and the message would be broadcast by the radio channel in Can Thoï One more time there was a failure. The channel of Can Tho was taken over one hour before by the infiltrators. The director was threatened into broadcasting the message to the people of the Vietcong Major Hoang Co Thach instead of General Nam's message. They broadcast Thach's message first and ten minutes later they broadcast Nam's. But it was too lateï It was impossible to regain the trust of the civilians and the soldiers then. More men deserted.

My husband had one major worryï He worried about the safety of me and of our children. And he asked me what I wanted to do about all of this. Deep in my heart I had made the decision that if my husband and his troops were to withdraw into the secret hidden places in the jungle, then my children and I would not go with him.

I had made a decision also I would kill myself and my children so that my husband would not carry this burden, this worry, that would divide his attention away from fighting. The reason I wanted to do that was because I knew that during the time the troops were moving to the jungles, no doubt, fighting with the communist forces would take place, therefore as soon as the troops were to be deployed to the places that were set up and began the march and the withdrawal, then at that time I would take my life and my children's lives, and this way my husband would not be distracted from his responsibility and his duty to defend the country.

I did not want us to be an added burden on him and on his

I am a Catholic. And I know that Catholicism forbids taking one's life, but you must know, that there are exceptions to the ruleï For example, to kill oneself for one's country, and for one's military forces, that is acceptable. I did not change my mind. I did not change the decision of killing myself and my children, but what happened was at that time, when the plans for the withdrawal into the jungle collapsed, my husband thought of killing himself. I wanted to die with him. The children and I wanted to die together with him. At the beginning I did not tell him of my plan of killing myself and the children, but at that time, when the plans for withdrawal collapsed and my husband talked of killing himself, we discussed a plan of dying together as a familyï But my husband disagreed with my decision. He did not want me to do that. To tell the truth, in the beginning, my husband agreed with my plan that the whole family would die together. I would inject the children with sleep medication and then I would inject myself with the same medication, and my husband would then shoot himself. But when the time came, my husband changed his mind and he did not want me to die nor the children. But he wanted to go ahead with his own plan to dieï

At 7:00 PM my husband called me up to his officeï We were aloneï He recounted for me all the failures since the afternoon and up to that minuteï Then, looking at me with his fiery eyes he told me slowly and gravely that he was going to kill himself. And he said, "You have to live to raise our children." I panicked. "Oh, my husband! Why did you change your mind?"

He said, "Our children are innocent. I could never bring myself to kill them."

"But we could not let them live with the communists. I will do it for youï All I need to do is to give them a very strong dose of sleeping drugs. Wait for meï We will all die at the same moment," I begged him.

"Impossible! Parents cannot kill their children. I beg you, Hoang, please try to bear this shameï Try to live and replace me to raise our children into good peopleï Try hard to live, even if you have to bow and to bear a heavy burden of shameï"

"If this is for the children, for your love of the children, then why can't we leave for a foreign country like the others?" I asked him.

He narrowed his eyes and with a severe look at me said, "You are my wifeï How could you utter those words?"

Knowing that I was clumsy with my words and had said the wrong things that disturbed him, I hastily repressed my excuses. "Please forgive me, my husband. It's only because I love you so much that I said these words."

His voice was so calm and so serious. "Listen to meï People can run away but I will never run wayï There are thousands of soldiers under my command and we have lived and died together. How can I at this minute abandon them and seek life for myself? And I will not surrender. At this moment, it is too late to withdraw into the secret places because we do not have the supply of weapons, ammunition and food, therefore, we will not be able to withstand the enemy for long. It is too lateï The Vietcong are coming. Don't let me lose my determination. Continuing to fight now will only bring trouble and loss not only to our family but to soldiers and civilians alsoï But I don't want to see the sight of any communists."

I shakily asked. "But what about meû What should I doû"

Holding tightly to my hands he said, "Our marriage has been full of love and respect and that makes us understand each other. Please try to tolerate this, even though you will have to bear many shameful and disheartening things. Go in disguise, change yourself so you can stay aliveï I trust youï For myself, for our children, for the love of the country, you must bear it. Listen to meï I beg youï I beg you!"

I could say nothing before his gaze and his bittersweet words.

"Yes, my husband, I will listen to you," I promised him.

But he was afraid that I would change my mind, so he continued to press on. "Promise me! Promise me that you'll do it!"

"I will, I promise. I promise to you, my loveï But please let me have two conditions. If the communists make me live away from the children and if they rape meï Then do I have the right to take my own lifeû"

My husband thought for a moment and then nodded his head in agreement.

He stood and embraced me and wept. Finally he said, "Hurry up and ask your mother and the children to come into see meï"

When my mother and the children came into his office, he said goodbye to them and kissed the children. He explained to my mother why he had to die and why I had to liveï Then obeying his command, I invited all of the officers and soldiers who were still present for their meeting to go into his officeï Everyone lined up and waited for the new orders.

The atmosphere was so solemn and yet so moving. This was the moment of saying farewell between the living and the dying of people who had fought closely together for so many years. My husband said that there were no new orders to go to the hidden places to fight back. The fighting was finished for now. He said, instead, "I do not abandon all of you to take my wife and children to run away overseas. As you all know, the operation failed midway, and I did not counterattack because of the peopleï Now I cannot bear the shame of surrender. You all have cooperated with me and when you did something wrong I told youï But when I scolded you, it is not because I hated youï I scolded you because I wanted us to come and to help one another.

"Even though our country is being sold out, being offered to the communists today, you are not to be blamed. It is those who directly held the fate of the country in their hands who are to bear the blameï Please forgive me my mistakes if I have made anyï

"I accept death. A commander who cannot protect his country, his position, then should die at his position for his country. He cannot abandon the people and the country and seek safety for himself. When I die, go back to your families, your wives and your children.

"And remember clearly this, my final warning: You must not let the communists put you in a concentration camp under some deceptive pretense.

"Goodbye, my brothers."

General Hung saluted and shook hands with his men one by oneï When he came near Major Phuong and Captain Nghia, he said, "Please help my wife and children. Goodbye."

Everyone stood still. Nobody was able to say a word.

My mother rushed over to him and asked to die with him. My husband comforted her and asked her to look after her grandchildren. He then ordered everyone to leaveï No one wanted to moveï He had to push them out one by oneï

I then pleaded with him, "My love, please let me stay to witness your death." But he refused. Captain Nghia ran awayï My husband returned to his office and locked the door.

I heard a loud shot from the other side of the door. A terribly loud shot. It startled meï

It was 8:45 pm, April 30, 1975. It was the final day of Vietnam. The final day of my husband's lifeï Someone said, "General Le Van Hung was dead!" I thought, "Oh, my husband, you are no more!"

When I entered the room my husband lay across the bed. His warms were open wide and he was still trembling hard, his whole body shook in waves and convulsions. His eyes were wide open and filled with anger. His mouth was open and his lips were moving. I threw myself at him and embraced him. I knelt beside the bed and put my ear to his mouth while asking, "My love, my loveï Do you have anything else to say to meï"

But he could no longer answer meï I held him in my arms and he died thereï

General Nam was unaware of my husband's suicide. When I tried to call him on the radio I could not get hold of him because the frequencies were jammed by the communists who were broadcasting.

I don't know exactly where General Nam was at that timeï I just did not know. But I tried to call him on the radio and I tried to locate a frequency where I could connect with him. He was probably a mile or so away from where I was at that timeï And my husband did not tell me or did not leave a message for me to contact General Nam and to tell him of his death. But I just wanted to tell General Nam, I just wanted him to know. My husband did not talk to General Nam about killing himself because at that time, on the 30th, during the day, there were some contacts between them but later in the day they lost contact with each other and he couldn't communicate with General Nam. And besides, my husband did not commit suicide until the Communists invaded the town of Can Thoï

At about 1:00 AM the phone rang again. This time it was General Nam.

"Hello, sister Hung?" he said.

I cried when I heard his voiceï

"General Nam!"

Nam's voice was filled with sorrow. "I heard the news of what happened," he said. "I share with you the sorrow. My condolences, sister Hung."

I continued to sob.

I asked General Nam what he planned to doï

I heard him sigh on the telephone. And then he said to me words that I will never forget until the day I dieï

"The fate of this war is so miserable. Sister Hung, your husband and I planned everything so well, even to the most minute details, and in the last moment we were betrayed.

"That's it, Sister Hung."

Then his voice went down and was again full of sorrow.

"Hung is dead. I guess I will die, tooï We are commanders and if we cannot protect our country, then we have to die with it."

Then his voice came back to its former calmness and strength.

"Try to be brave, sister Hung. You have to live because of your kids. If there is anything urgent or dangerous then call meï"

"Thank you, General," I said. \ After my talk with General Nam, I stepped out onto the balcony and looked to the courtyard below. The officers and soldiers were all goneï The gate was open. The wind moved the doors making a noise that was sad and tragic. I just stood there and cried for a long timeï

The next morning at 7:00 I had just finished my prayer for my husband's soul when I heard a sob behind meï Turning around, I saw Lt. Col. Tung, the chief of staff of the military hospital in Can Thoï He had come to visit my husband one last timeï He told me that he had to return to the hospital right away because General Nam had just committed suicide. His body was still in the hospital. General Nam ended his life by shooting himself in the temple at 6:00 AM, May 1st, 1975.

After our phone conversation, I had a premonition that it would happen, that he would kill himself. However, when Tung gave the news, I was still shocked. I knelt down facing the military hospital where he lay and I prayed for his soul.

The people of Can Tho knew me and would have pointed me out to the communists so I had to leave Can Tho on May 2nd for Saigon in order to protect myself and my children. I stayed at one major's home, he knew my husband, but I stayed there for only one night and then I had to go find another place to live, because nobody was willing to house me because they were afraid, and I also was afraid for them if they housed me and something happened.

During the next years in Saigon I had to change my residence countless times, I had to change my residence up to the time I left the country, which was in September of 1981. Why were few people willing to help me even though my husband a heroû You have to live in a communist society to know. How could they help meû After all, if they helped me they would be dead. They would be blacklisted by the government, they would be punished. Therefore I had to be on the move all the timeï

The children stayed with me most of the time, but whenever the search by the Communists got too close, I would give them to my mother to care for and until things calmed down and then they would live with me again.

I got little help also because not many people in Saigon knew that I was the wife of General Hung. I hid that fact from everyone. During the period of 1975 to 1981 I had no idea of committing suicide, but if I was captured by the Communists, then I would have to die, I was willing to die in a brave manner and not be tortured nor would I lose face nor would I hurt my husband's honor.

During that time period who could be happyû I could not be happyï Who could ever be happy living under Communist ruleû In the aftermath of the war, in the first few years, my hopes were still high and I was hoping that there would be a coming back, a return, because there was news and rumors of the resistance forces fighting, and I never thought of leaving the country. I was still thinking and hoping that the communist would be booted out of the South. However, as time went on and I recognized that I knew that the situation was not as rosy and advantageous to us, to the South Vietnamese people, I decided that the only way to be able to do something for the country was to leave the country and then go overseas and maybe from the overseas base I would be able to affect the situation. There was no way I could become an activist in Vietnam because they were always following me, like a shadow. They followed me that closeï They followed me day and night.

When my husband was alive he never told me to leave the country nor did he have the idea of leaving the country. But at night, in my dreams, when my husband came back and he told me the communists were near and that I should flee again and so he saved my life so many times.

I left Vietnam finally by boat. I was in a refugee camp with my children for 11 months in the Philippines. Then I came to the United States.

Besides freedom, I wanted to make a life for my children, to raise them and to continue to follow the path of my husband. I tried to do as I promised my husband before he died.

I dream about Vietnam all of the timeï For sureï It is in my mind and it is always with me Yes, I doï I always dream about being back in Vietnam and being chased and being hunted down by the communists. And my children can still remember their father....