Bổ túc tháng 8 năm 2006
Phạm Bá Hoa
____________ _________ _________ _________ _________ _
NƠI GẶP GỠ NHỮNG SVSQ CHIẾN HỮU VÀ ĐỒNG MÔN ĐÃ HUẤN LUYỆN TẠI QUÂN TRƯỜNG LỚN NHẤT ĐÔNG NAM Á
Hồ Ngọc Cẩn (24 tháng 3 năm 1938 - 14 tháng 8 năm 1975) là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng biệt động quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 bộ binh. Chức vụ cuối cùng lúc bị phía cộng sản bắt là đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện (tỉnh lị là Vị Thanh nay là tỉnh lị tỉnh Hậu Giang). Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng đối phương vây bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.
Thiếu thời
Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại miền tây. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc gia Việt Nam. Thuở nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường thiếu sinh quân. Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 7 trường thiếu sinh quân như sau:
Trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu, ở Gia Định
Trường thiếu sinh quân đệ nhị quân khu ở Huế
Trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu ở Hà Nội
Trường thiếu sinh quân Móng Cái dành cho sắc dân Nùng
Trường thiếu sinh quân đệ tứ quân khu ở Ban Mê Thuột
Trường thiếu sinh quân Đà Lạt của quân đội Pháp
Trường thiếu sinh quân Đông Dương của quân đội Pháp, ở Vũng Tàu
Ông được thu nhận vào lớp nhì trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho.
Khi Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu di chuyển từ Hà Nội vào, sát nhập với trường đệ nhất quân khu ở Mỹ Tho. Niên học 1954-1955, trường bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Ông học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt văn là ông Nguyễn Hữu Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào mà ông lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của ông được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của ông chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi.
Binh nghiệp
Năm 17 tuổi ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, về vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau ba tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.
Theo quy chế dành cho các thiếu sinh quân thời đó, một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau ông là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.
Chiến tranh tại miền Nam tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ quốc phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Ông được nhập học và tốt nghiệp khóa sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy.
Sau khi ra trường, ông theo học một khóa huấn luyện biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 42 biệt động quân "Cọp ba đầu rằn". Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương Thiện, Sóc Trăng (Ba Xuyên), Bạc Liêu, Cà Mau (An Xuyên). Nhờ tài chỉ huy thiên bẩm và chiến đấu gan dạ nên ông được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận lên đến trung úy và được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 42.
Cuối năm 1966, ông từ biệt tiểu đoàn 42 biệt động quân đi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 thuộc sư đoàn 21 bộ binh. Suốt năm 1967, ông với tiểu đoàn 1 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh vùng sông Hậu. Sau trận tổng công kích Mậu Thân, ông được thăng thiếu tá. Năm 1968, ông là người có nhiều huy chương nhất quân đội.
Năm 1970, ông được thăng trung tá và rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9 bộ binh. Năm 1972, ông được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An Lộc. Cuối năm 1973, ông được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện.
Trận chiến cuối cùng
Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.
Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu. Các đơn vị quân cộng sản tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cuối cùng ông bị bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội vừa nêu ra không thì ông trả lời như sau:
"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".
Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về ... và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa ... mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.
NGUYEN HUY HUNG
(Tháng Ba 1955 đến tháng Tư 1975)
Lược ghi của TRƯƠNG HUYỀN
Ðồng Ðế, điạ danh nằm trên cao cách thị xả Nha-Trang khoảng 4 km về phía Bắc, Ðông là bờ biển Nam Hải, Tây song song quốc lộ 1 và thiết lộ xuyên Việt, Nam tiếp giáp thắng cảnh hòn Chồng, Bắc giáp mỏm núi Hòn Khô. Hòn Chồng và Hòn Khô như hai cánh tay giang ra ôm eo biển Ðồng Ðế vào lòng. Không rỏ ai đặt tên Ðồng Ðế cho nơi nầy có ý nghỉa của nó ? Vùng đất nầy trước năm 1954 ít người lai vảng, dân cư thưa thớt, đặc biệt dọc theo núi Hòn Khô, dân chài lướI chiều từ biển đi vào phải đi từng nhóm và đề phòng ..,vì ông “Ba Mươi” khi chiều xuống thỉnh thỏang hay ra chào đón hoặc rình rập bắt gia súc .
Sau hiệp định Geneve, Ðồng Ðế trở nên nhộn nhịp, đồng bào Ba Làng (gốc Thanh Hóa) đến định cư chiếm một chiều dài khoảng ¾ km và chiều rộng ¼ km trên bờ biển, phần phía sau Ba Làng là một trại binh thô sơ do quân đội Pháp để lại .
Cuối năm 1954 quân trường Commando của Pháp (Ecole de Commando) tại Vạt Cháy, Hòn Gai được thu vén di chuyển vào Nam theo quy ước Geneve. Sau một thời gian ngắn tạm trú tại Suối Dầu (Khánh Hòa) tháng 2-1955 được di chuyển về trại binh Ðồng Ðế với danh xưng “Ecole de Commando Et Education Physique” tiếp theo chuyển giao cho QÐVNCH và đổi tên là “Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh Tiên Hoàng Ðồng Ðế”.
Lấy Ðồng Ðế làm trung tâm huấn luyện thật là một chọn lựa tối ưu. Từ các căn cứ quân sự Không, Hải, lộ vận và hỏa xa đều gần Trung tâm huấn luyện.Các xạ trường, mục tiêu cố định, di động, biến hiện, các bải tập mìn bẩy, dây tử thần, đoạn dường chiến binh, thao trường v.v…đều nằm dưới chân núi Hòn Khô hay thung lủng ở giửa chân núi Hòn Khô và đèo Rù Rì. Bao bọc chung quanh không xa địa điểm toạ lạc của trường có biển, sông, núi cao, rừng rậm trùng điệp rất thuận tiện cho việc huấn luyện như: Nhảy dù đêm trên mọi địa thế, xâm nhập ven biển, vượt sông, tác chiến sình lầy, phục kích, tấn công , phòng thủ nơi núi cao hay rừng rậm đều có sẳn địa thế và trường hợp muốn có địa thế rộng rải hơn nữa để phối họp hành quân thực tập cấp Ðại đội, Tiểu đòan, Liên đòan thì khu Ðồng Bò trong lãnh thổ Diên Khánh cách đó củng không bao xa. Ðồng Ðế khí hậu lại tốt, gió biển thổi ngày đêm . Tôi biết Ðà lạt vì xuất thân từ trường Võ Bị Liên Quân và củng là Huấn Luyện Viên taị trường Bộ Binh Thủ Ðức. Theo tôi địa thế huấn luyện Ðồng Ðế có nhiều đặc điểm tốt hơn hẳn hai quân trường trên .
- Ðà Lạt có rừng thông trùng điệp, khí hậu tốt, nhưng đến giai đoạn thực tập tác chiến trên mọi địa thế, đặc biệt sông rạch sình lầy …phải về vùng Bình Thủy -Cần Thơ .
- Trường Bộ Binh Thủ Ðức nằm trên đồi Tăng Nhân Phú, phía sau có nhiều sông rạch, không có núi đồi cao, chỉ có một ít rừng …,nhưng toàn là cây cao su, nên Thủ Ðức ít thích ứng cho quân trường về nhiều mặt. Nếu làm một Trung tâm hay Ðại Học dân sự thì tốt hơn .
Ðịa thế cùng với lối huấn luyện đặc biệt của quân trường Ðồng Ðế đã nổi tiếng khắp nước, nên dù là thư sinh hay kẻ đã khoác áo chiến y vẩn e ngại về Ðồng Ðế Những tin loan truyền về Ðồng Ðế không ai ngoài những khóa sinh đã từng bước qua cửa, thêm vào đó những người thích văn thơ lại sang tác những câu truyền tụng một thời trong nhân gian như :
“Rớt tú tài anh đi Trung sỉ
Quả thật, không gì cay hơn thi rớt, cha mẹ buồn phiền, người yêu tìm cách lánh mặt, tương lai như ngỏ cụt …, ghét dây Tử thần Ðồng Ðế củng chẳng đáng trách là “phản chiến” ! Nhưng khi đả được lệnh gọi trình diện nhập ngủ đi vào quân trường Ðồng Ðế thì ...một liều ba bảy củng phải liều để rồi “Ðồng Ðế đêm ngày nghe sóng vổ, dây Tử thần không làm nhụt chí nam nhi ..” .Rồi chẳng mấy chốc trở thành “trang thanh niên hùng dủng, người chiến sỉ oai hung của tiền tuyến và của lòng em …”. Quân trường Ðồng Ðế trở thành ..dễ thương, dễ nhớ …
Kẻ viết bài nầy khi nhận lệnh đi thụ huấn ở quân trường Ðồng Ðế củng mang tâm trạng ..chán nản, bất mãn, nhưng hôm nay lại thấy vinh dự khi nhắc lại những buồn vui nơi quân trường. Thật vậy, từ trường Ðaị học Quân sự về Sư Đoàn với nhiều ước vọng, nhất là Tiểu đoàn cũ còn đó, một ghế Trung Đoàn Trưởng chưa người điền khuyết …Nhưng khi trình diện Tư Lệnh Sư Đoàn, Trung Tá Nguyển Văn Vĩnh (biệt danh Vĩnh hèo)* với nét mặt nghiêm nghị, ông ta ra lệnh :”Anh về đúng lúc, trong khi chờ đợi lệnh thuyên chuyển chẳng lẻ “ngồi đuổi rồi”(chứng tật nói năng đối với cấp dưới chẳng phải giận ghét), anh đã là Tiểu Đoàn Trưởng, anh đã qua Ðại học Quân sự, nay anh “đại diện” Sư Đoàn đi học nốt Biệt Ðộng Ðội Thể Dục 3 tháng tại Ðồng Ðế, nó sẻ giúp anh khi nhận nhiệm vụ mới. Khóa khai giảng tuần qua, xuống nhận Sự vụ lệnh đi ngay cho kịp” .Tôi định hỏi kỷ về lệnh của ông, nhưng chợt nghỉ ..có hỏi thì củng như “hèo” thôi ! nên tuân lệnh chào và đàng sau quay .
Với tư cách khóa sinh, tôi đến trình diện Quân Trường Ðồng Ðế . Ban huấn luyện quân trường ngạc nhiên và lúng túng vì cơ hữu lúc bấy giờ chỉ có vài Ðại úy, Trưởng khối khóa sinh là một Trung úy, trong khi khóa sinh đeo cấp bậc Ðại úy . Ðế giải quyết vấn đề, Ban huấn luyện đặt tôi là “Khóa sinh cố vấn” (không phải cố vấn khóa sinh). Tôi không bị ràng buộc vấn đề huấn luyện, nhưng hằng ngày tôi củng sinh hoạt theo Ðại đội 21 mà Ðại Đội Trưởng là Trung Úy Danh. Chương trình huấn luyện vào lúc nầy không có gì đổi mới ngọai trừ huấn nhục để người khóa sinh chịu đựng cam go khó nhọc gian khổ. Buổi sáng ra khỏi trại, trên đường đi đến thao trường vừa chạy vừa la .. Ðại đội trưởng hô “Biệt động đội”, khóa sinh đáp “À” .
Sau 3 tháng học tập, tôi có lệnh thuyên chuyển chính thức về quân trường, nhận Trưởng khối Quân Huấn thay cho Ðại Úy BVS lên chức Chỉ Huy Phó .
Trường Biệt Ðộng Ðội & Thể Dục Ðồng Ðế chuyển mình. Ðầu năm 1957 Ðại tá Nguyễn Thế Như (nguyên tư lệnh Sư đoàn Khinh chiến 15) và Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Minh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ về thay thế Ðại Tá Trần Vĩnh Ðắc trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng quân trường, hang loạt sĩ quan tốt nghiệp ở Mỹ và Mã Lai được đưa về .Võ sư Thiếu tá Nguyển văn Minh (cấp đồng hóa) và một vỏ sư khác (huyền đai) người Nhật bản (nguyên Trung úy đào ngũ ở lại VN sau khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Ðồng Minh) được Bộ Tổng Tham Mưu gởi tới. Cố vấn quân sự Mỹ cũng được thay thế bởi một Ðại Úy tốt nghiệp Ranger và đã có kinh nghiệm huấn luyện cho Biệt Kích Mã Lai Á .
Hướng đi của Bộ Tổng Tham Mưu cho quân trường lúc đó là:
A .Huấn luyện tăng thêm hiệu năng tác chiến nghành Biệt Ðộng Ðội & Thể dục trong đó có cả Thể dục cận chiến và chuyển mình hình thành một binh chủng .
Khởi đầu chưong trình tu nghiệp là bổ túc quân sự cho khoảng 400 HSQ chuyên nghiệp có B1 hoặc B2, đồng thời tiếp nhận các HSQ từ các đơn vị gởi về tu nghiệp theo nhịp độ 3 tháng 1 khóa, sỉ số khóa sinh tùy theo khả năng quân trường Ngoài ra cuối năm 1957 quân trường phải tiếp nhận thêm 1 khóa tu nghiệp đặc biệt cho khoảng 900 Hạ Sĩ Quan của các giáo phái (Bình Xuyên, Cao Ðài, Hòa Hảo) vừa mới sát nhập vào Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa . Số khóa sinh nầy là một khó khăn và nhức đầu của quân trường lúc bấy giờ, ngơài việc học tập không mấy ai tích cực mà thỉnh thoảng cuối tuần anh em lại kéo ra sân cờ đòi về
Cuối năm 1957, một loạt Sĩ quan khác sau khi tốt nghiệp các khóa ở nước ngoài về cũng được thuyên chuyển tới Ðồng Ðế trong đó có Ðại úy ÐVT tốt nghiệp Bộ binh cao cấp ở Mỹ thay tôi trong nhiệm vụ Trưởng khối Quân Huấn, còn tôi trách nhiệm Khối Khóa sinh . Cùng lúc đó một số Sĩ quan của Quân trường kể cả Chỉ Huy Trưởng cũng được thay nhau đi thăm quan các Trung Tâm Huấn Luyện của các Sư đòan Bộ binh Mỹ đồn trú tại Hạ Uy Di . Ðặc biệt quân trường lúc nầy cũng được sự chú tâm theo dõi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên khi danh sách phái đoàn thăm quan đầu tiên được trình lên TT (thời điểm nầy tất cả danh sách người đi xuất ngoại đều phải trình lên TT) gồm có Ðại Tá Như, tôi, Oanh và Chánh cùng đang có mặt tại Sàigòn để chuẩn bị hành trang lên đường . Khi thấy tên Ðại Tá Như, ngay tức khắc Tổng Thống ra lệnh Bộ Tổng Tham Mưu chỉ thị Thiếu Tướng Tôn Thất Ðính Tư lệnh Quân Ðoàn II chọn một Sĩ quan khác thay thế Ðại Tá Như đi thăm quan và sẽ nhận nhiệm vụ Chỉ Huy Trưởng Trường Hạ Sĩ Quan sau khi đi thăm quan về .Trung Tá Ðoàn Văn Quảng thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II được chọn..,và phái đoàn lên đường ngay sau khi Trung Tá Quảng có mặt tại Sài-gòn .
Tổng Thống và Bộ TTM quan tâm đến trường HSQ là điều dể hiểu, vì hàng ngủ Hạ Sĩ Quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa thời kỳ phôi thai rất phức tạp, một phần được đào tạo từ địa phương và đả có thâm niên công vụ, đa số rất giỏi cả chiến đấu lẩn tham mưu, chính họ thường xuyên được trám vào các chức vụ khi chưa có Sĩ quan điền khuyết .Một số lớn khác được thăng cấp tại hàng vì công trạng hay nhu cầu của các lực lượng giáo phái, số khác thuộc lực lượng phụ binh của Pháp để lại, đa số chiến đấu rất giỏi và gan lì , đụng địch là húc như trâu điên …Nhưng ..! hiểu biết tổng quát kém, môn bản đồ chưa được học qua, địa bàn, vũ khí, truyền tin hay nghệ thuật lãnh đạo tất cả đều chưa có căn bản . Việc tu nghiệp để nâng cao trình độ cho Hạ Sĩ Quan trong quân đội tân tiến là một vấn đề thiết yếu. Sự lưu tâm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng là một vinh dự cho hàng Hạ Sĩ Quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa và cho quân lực .
Cuối năm 1958, sau khi việc huấn luyện song hành của Biệt Ðộng Ðội, Thể Dục và Hạ Sĩ Quan có kết quả cụ thể, việc quản trị tiếp vận đã hoàn chỉnh, chương trình huấn luyện Biệt Ðộng Ðội và Thể Dục cũng chuyển dần sang việc thành lập binh chủng Biệt Ðộng Quân thì một lần nữa quân trường Ðồng Ðế lại có thêm một nhiệm vụ mới đó là chuẩn bị phương tiện để đón nhận và đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch. Khác với trường Võ bị Ðà-lạt, tài nguyên SVSQ được chọn từ hàng HSQ xuất sắc, họ phải là những người có chiến công, hạnh kiểm tốt, trình độ văn hóa Trung học phổ thông. Tuy nhiên ứng viên phải qua một cuộc thi tuyển do Bộ Tổng Tham Mưu tổ chức .
Trong thời gian quân trường chuẩn bị tài liệu huấn luyện, phương tiện tiếp vận và đợi danh sách các SVSQ được tuyển chọn của Bộ TTM, thì tờ báo “Chiến Sĩ Quân Ðội VNCH”, tiếng nói duy nhất của Quân Đội do Nha Chiến Tranh Tâm lý Bộ Quốc Phòng phát hành dành nguyên một số đặc biệt nói về tường HSQ và vai trò của HSQ trong QLVNCH, tôi được phòng Chiến Tranh Tâm Lý yêu cầu viết bài qua cái nhìn thực tế lúc ở ngoài đơn vị và lúc ở quân trường .
Tháng 6 năm 1959 khóa hiện dịch đầu tiên được khai giảng với sĩ số trên 350 người Về sinh hoạt hằng ngày như quân phong quân kỷ, nghệ thuật dẫn đạo lấy khuôn mẩu từ trường Võ Bị Ðà Lạt . Cán bộ điều hành từ Tiểu đoàn trưởng và Ðại đội trưởng hầu hết xuất thân từ quân trường nầy. Về chương trình huấn luyện 9 tháng tại quân trường, vì tất cả các SVSQ đã có kiến thức căn bản quân sự kể cả cá nhân và tiểu đội tác chiến, nên dành nhiều thì giờ cho việc huấn luyện các khoa chuyên môn theo phương pháp Mỹ, phần tác chiến chú trọng huấn nhục, tháo vát, quen chịu đựng gian khổ trong mọi hoàn cảnh và khả năng điều quân cấp trung đội & đại đội. Sau đó 3 tháng phân bổ thực tập trong các đơn vị chiến đấu, việc theo dỏi thực tập, phê phán khả năng thuộc quyền của các đơn vị trưởng thực tập, quân trường chỉ đóng vai trò liên lạc . Với tư cách là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn SVSQ, được quân trường phái xuống các đơn vị để ghi nhận ý kiến của cả hai bên .
Gần cuối năm 1959, công việc đang bình thường thì quân trường lại thay đổi Chỉ Huy Trưởng. Trung Tá Ðoàn văn Quảng đi, Trung tá Ðặng Văn Sơn đến thay thế. Sau mỗi lần thay đổi Chỉ Huy Trưởng, việc huấn luyện củng thay đổi ít nhiều . Nhưng phải thành thực nhận định, dưới thời Trung Tá Sơn từ việc huấn luyện cho tới quản trị tiếp vận, chỉnh trang và thiết trí thao trường, xạ trường….chu tất nhất, không những thế, từ trạm xá, phòng xả hội dành cho trại gia binh củng được kiến tạo .
Ðầu tháng 7 năm 1960, tất cả SVSQ đi thực tập trở về trường để tham dự trắc nghiệm cuối cùng để chuẩn bị mãn khóa. Sau hơn một năm tròn tôi luyện, ngày 23 tháng 7 năm 1960 khóa 1 SVSQ làm lễ mãn khóa dưới sự chủ tọa của Tổng thống VNCH . sau lể mản khóa, TT Diệm đích thân đi thăm các thao trường và rất hân hoan khi nhìn tận mắt một toán khóa sinh với trang bị cá nhân tác chiến đang thực tập vượt sông Cả (Nha Trang) mà một Sĩ quan huấn luyện viên mang khẩu đại liên 30 với đầy đủ đạn dược lắp ngay vào chổ Tổng Thống và quan khách đang đứng. Hoặc là màn huấn luyện của một toán khóa sinh từ đỉnh đồi cao bám vào giây cáp vượt qua sườn núi, phía dưới là ghềnh đá lởm chởm (nếu yếu bóng vía chỉ có thể nhắm mắt chờ chết) cuối cùng rơi xuống hồ nước, biết bơi thì vào bờ, không biết thì …uống một ít nước rồi có người cứu ngay .., được gọi là “giây tử thần” !
Sau ngày mãn khóa 1 trên 300 “ Tân Sĩ quan nhà nghề” được tung đi bốn phương trời , các đơn vị đón nhận họ như một món quà quí giá .Võ Bị Ðồng Ðế từ đấy .. “Vua biết mặt, Chúa biết tên” nên được lệnh tiếp tục đào tạo thêm các khóa kế tiếp . Khóa 2 khai giảng ngày 27 tháng 2 năm 1961 với sỉ số 350 người .Khóa 3 khai giảng ngày 27 tháng 5 năm 1962 với sĩ số 550 người, khóa 4 sĩ số 400 người . Ðặc biệt khóa 3 & 4 Sĩ Quan hiện dịch trước khi khai giảng khóa học độ 2 tháng, có khoảng 100 sinh viên Quốc gia Hành chánh thuộc các khóa 6,7 & 8 đã tốt nghiệp về Hành chánh, theo chỉ thị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm được gởi tới trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế để thụ huấn căn bản quân sự và sau khi mãn khóa được nhập học với khóa 3 & 4 Sĩ Quan hiện dịch . Sau khi tốt nghiệp khoá Sĩ Quan tại Ðồng Ðế, các sinh viên Quốc gia Hành chánh nầy trở về nhiệm sở để tương lai theo kế hoạch của chính phủ VNCH, các sinh viên nầy sẻ được bổ nhiệm chức vụ Quận Trưởng thay thế Sĩ Quan Quân Đội trở về chỉ huy với nhiệm vụ quân sự thuần túy . Tổng cộng Sĩ Quan Hiện Dịch xuất thân từ Võ Bị Ðồng Ðế là 1800 người, không kể 100 Sĩ Quan nguyên là gốc là Sinh Viên Quốc Gia Hành chánh . Cuối năm 1963 quân trường chấm dứt đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch .
Trong năm 1961, quân trường có một số thay đổi . Ðầu năm, bộ phận Lực Lượng Ðặc Biệt (Liên đoàn 77 Biệt kích Dù) rút hết về Sài Gòn, sau đó bộ phận huấn luyện Biệt Ðộng Quân được di chuyển ra Dục Mỹ. Ðại Tá Sơn được chỉ định Chỉ huy trưởng TTHL Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ, Ðại Tá Ðỗ Cao Trí về chức vụ Chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế Nha Trang.
Ðầu năm 1962, vì nhu cầu quân số việc đào tạo Hạ Sĩ Quan được gia tăng mạnh mẽ cả phẩm lẫn lượng cho tới cuối năm 1963 sau khi chấm dứt đào tạo Sĩ Quan hiện dịch. Mọi nỗ lực quân trường đều dồn hết vào việc đào tạo Hạ Sĩ Quan . Ðến nữa năm 1967 thì Vỏ bị Thủ Ðức vượt quá khả năng nên Vỏ bị Ðồng Ðế được lệnh chuẩn bị gánh vác thêm việc huấn luyện sỉ quan trừ bị ..và từ đó tới năm 1972 sĩ số khóa sinh và Sinh Viên Sĩ Quan quá đông, doanh trại không đủ chổ chứa phải dựng thêm lều vải.
Võ Bị Ðồng Ðế chính danh là trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng từ tháng 3-1955 đến 4-1975 đã đào tạo hàng vạn BÐÐ & TD và BÐQ, tu nghiệp trên 20,000 và đào tạo trên 120,000 Hạ Sĩ Quan , 1,800 Sĩ Quan Hiện Dịch, khoảng 12,000 Sĩ Quan trừ bị và tu nghiệp một số nhỏ (không đáng kể) Sĩ Quan nước bạn Cam-Bốt .
Ðể tri ân và ghi nhớ Võ Bị Ðồng Ðế từ ngày sinh cho đến ngày tử, đã lần lượt chỉ huy bởi các danh Tá, danh Tướng như sau : (ghi cấp bậc khi nhận bàn giao)
Suốt 20 năm Vỏ Bị Ðồng Ðế đã đóng góp vĩ đại vào công cuộc xây dựng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lấy phương châm “TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM” làm kim chỉ nam .
Trước hết xin kính cẩn hoài niệm và tri ân hàng ngàn cựu khóa sinh và sinh viên, cán bộ đả giũ trọn lời thề hy sinh cho Tổ Quốc trong đó có cố Ðại Tướng Ðổ Cao Trí nguyên Chỉ Huy Trưởng là tiêu biểu. Kế đến xin được ca tụng hàng Huấn luyện viên mà Võ Bị Ðồng Ðế đã may mắn có một toán Huấn luyện viên như quí vị đã đưa quân trường Ðồng Ðế trở thành danh trường, cung cấp hàng vạn cấp chỉ huy tài danh và can đảm cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa . Không phải chỉ ở quân trường, mà khi ra chiến trường quí vị cũng là những “kiện tướng”, điển hình như Tướng Phạm Văn Tất (HLV/LÐ77), Ðại Tá Cao văn Ủy (HLVCT & BÐQ), tên tuổi quí vị đã đi vào quân sử và lịch sử trên đường Quốc Lộ 7 mà Sư Đoàn Sao vàng cộng sản không thể quên Liên đoàn 4 Biệt Ðộng Quân (kẻ thù số 1 của chúng) và Ðại tá Vủ Phi Hùng (tức nhà văn Phùng Hy HLV vủ khí & BÐQ).
Sau hết xin được ca tụng tinh thần kỹ luật, lòng trung thành của Khóa sinh, Quân-Dân-Chính các cấp trường Vỏ Bị Ðồng Ðế đối với quân đội cũng như chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong biến cố tháng 4-75, lúc nào củng thủ súng sẳn sàng chiến đấu. Nếu không vì tình hình biến đổi, xoay chiều quá mau chóng và nếu không có lệnh của cấp chỉ huy của quân trường cho “ai nấy tự di tản” thì khi quân “tai bèo dép râu” bước qua cổng Vỏ Bị Ðồng Ðế cũng khốn đốn như bước vào cổng Tỉnh, Tiểu Khu Chương Thiện của cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (cựu SVSQ khóa 2 hiện dịch Ðồng Ðế Nha Trang).
Trương Huyền
Ghi chú:
* Trung tá Vĩnh là một sĩ quan kỹ luật nghiêm minh và tận tụy (dưới thời Pháp), khi cấp dưới vi phạm kỹ luật, ông có tật hay đánh cấp dưới bằng hèo (quất vào đít như Bố đánh con) cho nên mới mang danh “hèo”. Ông thường được thượng cấp chỉ định làm Quân Trấn trưởng nhiều nơi kể cả Sàigon-Chợ Lớn . Ông chết bất đắc kỳ tử khoảng 1 tuần trước biến cố
Lịch sử Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang
Sau hiệp định Geneve tháng 7 năm 1954 chia đôi đất nước, hàng ngàn đồng bào gốc Ba Làng-Thanh Hóa trốn chạy cộng sản di cư vào Ðồng Ðế làm ăn sinh sống rồi mau chóng xây dựng lên một làng đánh cá gọi tên là “Ba Làng” trên mảnh đất dài gần 1km và rộng hơn 200m nằm về phía Ðông của Ðồng Ðế sát bờ biển, từ đó Ba Làng thuộc lãnh thổ Xã Vĩnh Hải, Quận Vĩnh Xương, Tỉnh Khánh Hòa .
Ðồng thời củng vào cuối năm 1954, theo Quy Ước Geneve của trường Ecole De Commando của quân đội Pháp từ Bải Cháy (Quảng Yên) di dời vào miền Nam, tạm trú tại Suối Dầu (Khánh Hòa) đến đầu tháng 2-1955 chuyển tiếp về Ðồng Ðế, đồn trú trong trại binh cũ của Pháp và cải danh là “Ecole De Commando Et Education Physique”, rồi chuyển giao cho Quân đội Quốc gia Việt Nam do Thiếu Tá Lê Cầm tiếp nhận chỉ huy đầu tiên và ngay sau đó đổi tên là “Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh Tiên Hoàng”, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Do đó quân trường nầy xem như được thành lập kể từ tháng 2 năm1955 tại Ðồng Ðế, Nha Trang .
Tiếp đến đầu năm 1956, Ðại Tá Trần Vỉnh Ðắc được cử về thay thế Thiếu Tá Lê Cầm và một năm sau Ðại Tá Nguyển Thế Như Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống được bổ nhiệm thay thế Ðại Tá Trần Vĩnh Ðắc trong Chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh Tiên Hoàng, đồng thời một loạt sỉ quan vừa tốt nghiệp các khoá quân sự ở Hoa kỳ, Okinawa (Nhật bản) và Mả Lai v.v…được thuyên chuyển về trường. Ðến đầu tháng 2-1957, Bộ Tổng Tham Mưu quyết định đổi tên Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh tiên Hoàng thành Trường Hạ Sỉ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” để thích hợp với hoàn cảnh và nhiệm vụ mới.
Trước năm 1955 chẳng mấy ai biết đến vùng đất Ðồng Ðế, nhưng từ khi có một làng đánh cá của dân di cư và một trường Võ Bị QLVNCH được thiết lập tại đây đó là Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh Tiên Hoàng sau cải danh thành Trường Hạ Sỉ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì Ðồng Ðế được hầu hết dân chúng địa phương Nha-Trang Khánh-Hòa biết đến …,và chỉ 2 năm sau vùng đất Ðồng Ðế đã hoàn toàn thay da đổi thịt, dọc theo hai bên con đường phía trước Trưòng HSQ Ðồng Ðế nối liền từ quốc lộ 1 hướng Tây ra đến tận bờ biển giáp giới với đường Ba Làng dài trên 1km gọi tên là đường Ðồng Ðế bổng biến thành một khu phố đông đúc tấp nập, nhà cửa dựng lên san sát, dân cư phần đông là đồng bào địa phương Nha-Trang, Khánh-Hòa đổ về, một phần là thân nhân gia đình của các quân nhân đang phục vụ ở Trường HSQ Ðồng Ðế từ các nơi đến cư ngụ làm ăn sinh sống. Ðồng bào ở đây gọi Trường HSQ –QLVNCH là “Trường Ðồng Ðế Nha Trang” hoặc “Quân Trường Ðồng Ðế” để thay thế cho cụm từ xưng danh của trường quá dài . Tên gọi Quân Trưòng Ðồng Ðế dần dà đã trở thành quen thuộc đối với dân chúng và các đơn vị quân đội địa phương đồn trú vùng đất Nha Trang. Khánh Hòa .
Trở lại quá trình 20 năm của quân trường Ðồng Ðế :
1.Giai đoạn mới thành lập
-Xây dựng doanh trại cơ sở, tiện nghi huấn luyện, bổ xung Sĩ quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ, mở các lớp huấn luyện Biệt Ðộng Ðội, Thể dục, Võ thuật, Cận chiến.
-Cấp chứng chỉ B1, B2 cho Hạ Sĩ quan, tu nghiệp Hạ Sĩ Quan chính quy và Hạ Sĩ Quan các giáo phái Bình Xuyên, Cao Ðài, Hoà Hảo mới được sát nhập vào hàng ngủ QLVNCH.
-Ðào tạo Hạ Sĩ Quan huấn luyện chiến tranh đặc biệt cho Liên Đoàn 77 / LLÐB .
-Huấn luyện căn bản quân sự cho các SVSQ Hải Quân, Không Quân và cuối năm 1958 huấn luyện Biệt Ðộng Quân song song với TTHL Song Mao và Ðà Nẵng trong khi TTHL Dục Mỹ được thành lập .
2. Giai Đoạn Huấn Luyện Đặc Biệt
Ðầu năm 1959, chương trình huấn luyến Biệt Ðộng Ðội và Thể Dục củng như việc huấn luyện tu nghiệp cho Hạ Sĩ Quan các giáo phái hoàn tất, Trung Tá Ðoàn Văn Quảng thuộc binh chủng Lực Lượng Ðặc Biệt được cử về Chỉ Huy Trường Ðồng Ðế thay thế Trung Tá Nguyển Thế Như trong giai đoạn trường chuyển mình bước sang giai đoạn và nhiệm vụ mới: chỉnh trang, xây dựng, mở thêm doanh trại, chuẩn bị những nhu cầu, phương tiện cần thiết để nhận trách nhiệm mở các khóa huấn luyện đào tạo Sĩ Quan Hiện dịch Ðặc biệt theo chỉ thị của Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm sau đợt Tổng Thống đến thăm các Quân Đoàn, Vùng Chiến Thuật, các Quân Trường như Trường HSQ Ðồng Ðế, Trường Võ Bị Ðà Lạt, Thủ Ðức, Trường Quân Y v..v….Tài nguyên sinh viên được quy định là những HSQ ưu tú, có trình độ văn hóa từ Trung học trở lên, thâm niên cấp bực tối thiểu 2 năm, tác phong hạnh kiểm tốt, có kinh nghiệm chiến trường và phải qua một cuộc thi sách hạch văn hóa do Bộ Tổng Tham Mưu tổ chức . Sau đó, khóa Sĩ Quan Hiện Dịch Ðặc Biệt đầu tiên khai giảng có sĩ số 329 SVSQ .Chương trình huấn luyện gồm 9 tháng học quân sự tại trường và 3 tháng thực tập tại các đơn vị tác chiến chuyên môn như Pháo binh, Công binh, Thiết giáp, Truyền tin .v..v, rồi trở về trường thi trắc nghiệm cuối khóa . sau 13 tháng tôi luyện võ nghiệp, có 329/350 SVSQ tốt nghiệp .Lể mản khoá 1 Sĩ Quan Hiện dịch Ðặc Biệt được tổ chức trọng thể tại Trường Ðồng Ðế vào sáng ngày 23-7-1960 dưới sự chủ tọa của ông Phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng và Ðại Tướng TTM Trưởng đại diện cho Tổng Thống VNCH .
Sau khi thực hiện thành công tốt đẹp nhiệm vụ huấn huấn luyện cho khoá 1 Sỉ quan hiện dịch được đánh giá là rất thành công , Quân Trường Ðồng Ðế một lần nữa được giao trách nhiệm tổ chức mở tiếp các khoá 2, 3 và 4 Sỉ Quan hiện dịch trong 3 năm liền 1961, 1962 và 1963 ; mổi khóa với sĩ số trên dưới 500 SVSQ .Riêng khóa 3 và 4 có hơn 100 sinh viên đã tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh được chính phủ gởi ra trường Ðồng Ðế theo học chung với các SVSQ hiện dịch để sau khi mãn khóa Sĩ Quan sẽ được bổ nhiệm giử các chức vụ hành chánh tại các địa phương và trung ương như Quận Trưởng, Phó Tỉnh Trưởng, Chủ Sự, Giám Đốc .v.v. Sau khi chấm dứt việc huấn luyện Sĩ quan hiện dịch vào cuối năm 1963, trường Ðồng Ðế lại tiếp tục gia tăng việc huấn luyện đào tạo Hạ Sĩ Quan cho đến đầu năm 1968 .
3. Giai đoạn đặc biệt khẩn trương
Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của Việt cộng, chính phủ VNCH ban hành lệnh tổng động viên đối với các thanh niên trong hạn tuổi thi hành nghỉa vụ quân sự có văn bằng tú tài 1 trở lên, có sức khỏe tốt trình diện nhập ngủ, theo học các khóa Sĩ Quan trừ bị .Trước tình hình khẩn trương của đất nước, Trường Ðồng Ðế được giao trọng trách mở các khóa huấn luyện Sĩ Quan trừ bị song song với Trường Bộ Binh Thủ Ðức . Từ đó cho đến cuối năm 1973, quân trường Ðồng Ðế dồn mọi nỗ lực vào nhiệm vụ liên tục mở ra nhiều khoá đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị mỗi năm có từ 4 đến 5 khoá, mỗi khoá có từ 500 đến 1000 SVSQ theo học. Kết quả Trường Ðồng Ðế đã đào tạo thành công cho QLVNCH có thêm trên dưới 12.000 Sĩ Quan trừ bị trong giai đoạn khẩn trương Việt nam hóa chiến tranh .
Trong quá trình 20 năm, quân trường Ðồng Ðế đả được 17 Sĩ Quan cấp Tướng Tá tài ba lỗi lạc, giàu kiến thức quân sự và kinh nghiệm chiến trường chỉ huy hướng dẩn, trước nhất là Thiếu tá Lê Cầm, từ đầu tháng 2-1955, rồi lần lượt tiếp đến :
-Ðại Tá Trần Vĩnh Ðắc
-Ðại Tá Nguyễn Thế Như
-Trung Tá Ðoàn Văn Quảng
-Ðại Tá Ðặng Văn Sơn
-Ðại Tá Ðổ Cao Trí
-Ðạị Tá Nguyễn Văn Kiểm
-Ðại Tá Nguyễn Vỉnh Xuân
-Trung Tá Lê Quang Liêm
-Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là
-Ðại Tá Lâm Quang Thơ
-Ðại Tá Phạm Văn Liễu
-Ðại Tá Lê Văn Nhật
-Trung Tướng Linh Quang Viên
-Chuẩn Tướng Vỏ Văn Cảnh
-Trung Tướng Dư Quốc Ðống
-Trung Tướng Phạm Quốc Thuần
Quân trường Ðồng Ðế khởi đầu từ một trường biệt động đội nhỏ bé, sau trở thành một quân trường lớn, một quân Quân trường trường kiểu mẫu, một lò luyện thép của QLVNCH, đa năng, đa nhiệm, có khả năng mở nhiều khóa huấn luyện khác nhau, đảm nhiệm những trách vụ khác nhau, từ huấn luyện biệt động đội, thể dục, võ thuật, cận chiến, bổ túc và đào tạo Hạ Sĩ Quan, huấn luyện căn bản quân sự cho SVSQ Hải và Không Quân, đến đào tạo Sĩ Quan hiện dịch và trừ bị, và đã hoàn thành được nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Ðó là nhờ công lao, lòng nhiệt thành cùng tinh thần phục vụ cao của các vị chỉ huy, trong đó đáng kể nhất là Ðại Tá Ðặng Văn Sơn Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ binh được Tổng Thống VNCH bổ nhiệm về chỉ huy quân trường Ðồng Ðế gần cuối năm 1959 với nhiệm vụ đặc biệt là lãnh đạo việc huấn luyện đào tạo Sỉ Quan hiện dịch, kiện tòan hệ thống tổ chức điều hành của trường và chỉnh trang xây dựng mở mang trường ốc .v.v..
Trong 2 năm giử chức vụ Chỉ Huy Trưởng quân trường, với tài lảnh đạo chỉ huy sáng suốt, kiến thức dồi dào cùng với lòng nhiệt thành hăng say phục vụ …,Ðại Tá Sơn đã hoàn thành được trách vụ một cách tốt đẹp do thượng cấp giao phó .
Quân trường Ðồng Ðế có quá trình 20 năm lịch sử hoạt động không ngừng nghỉ gắn liền với chiều dài chiến tranh VN, đã tạo được những thành tích không nhỏ trong nhiệm vụ thực hiện công tác quân huấn, đã chu toàn tốt đẹp các khóa huấn luyện được giao phó. Là một quân trường huấn luyện biệt động quân đầu tiên, và nhất là đã đào tạo được trên 100,000 Hạ Sĩ Quan ưu tú, 1,800 Sĩ Quan hiện dịch, 12,000 Sĩ Quan trừ bị, góp phần không nhỏ vào việc phát triển và nâng cao hiệu năng tác chiến của QLVNCH.
Trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lược miền Nam, đã có nhiều chiến binh các cấp từ quân trường Ðồng Ðế khi ra trận địa đã giữ tròn lời thề trung thành với tổ quốc, đã chiến đấu rất kiên cường dũng cảm, đã hy sinh cho lý tưởng tự do, đã nằm xuống vĩnh viễn trong lòng đất mẹ VN như:
-Cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí, nguyên Chỉ Huy Trưởng Quân Trường Ðồng Ðế, trong các chức vụ tư lệnh chiến trường , nổi danh là một tướng lãnh can trường bất chấp mọi hiểm nguy , luôn luôn có mặt tại mặt trận để chỉ huy điều động các đơn vị dưới quyền chiến đấu …; đã tử nạn trực thăng ngày 23 tháng 2 năm 1971 trong khi bay thị sát chiến trường ngoại biên.
-Cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, xuất thân khóa 2 Sỉ Quan hiện dịch trường Ðồng Ðế .Trong các chức vụ Ðại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân , Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, ông nổi tiếng là một cấp chỉ huy can đảm, có biệt tài điều quân chiến đấu, nhất là trong trận đánh giải tỏa An Lộc năm 1972 và Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện. Trong biến cố
- Cố Ðại Tá Cao Văn Ủy , nguyên Trưởng Khoa Chiến Thuật, cố Ðại Tá Vũ Phi Hùng nguyên Trưởng Khoa Vũ khí trường Ðồng Ðế, sau là 2 kiện Tá Liên Đoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân nổi tiếng can đảm, là đối thủ đáng sợ của Sư đoàn Sao Vàng Việt cộng .
-Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa, đồng khóa 2 Sỉ Quan hiện dịch với cố Ðại tá Hồ ngọc Cẩn, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Quái Ðiểu TQLC, nổi tiếng trong nhiều trận chiến, nhất là trận đánh trực thăng vận đổ xuống ngay trên đầu địch quân để tái chiếm quận Triệu Phong trong “mùa Hè đỏ lửa” năm 1972.
-Trung Tá Lê Quý Dậu, xuất thân khóa 3 Sĩ Quan hiện dịch trường Ðồng Ðế, Liên đoàn Trưởng BÐQ là một cấp chỉ huy kiệt xuất trong nhiều chiến trận, như trận đánh ác liệt tử thủ An Lộc tháng 6-1972 .
-Và nhiều những chiến sỉ khác xuất thân từ trường Ðồng Ðế đả nêu cao gương chiến đấu dũng cảm trước họng súng quân thù, đả hy sinh cho lý tưởng tự do, máu của họ đã đổ xuống trong nhiều trận địa, xương thịt đã vùi sâu trong lòng đất mẹ Việt nam .., nhiều chiến sĩ đả trở thành thương binh, để lại một phần thân thể trong cuộc chiến …và nhiều chiến sĩ đang định cư tại các quốc gia tự do trên thế giới sau những năm bị đoạ đày, lầm than cơ cực trong ngục tù cải tạo của Cộng Sản.
Bất ngờ thế cuộc xoay chiều đổi hướng, đồng minh ngoảnh mặt, Hiệp Ðịnh Paris chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình tại VN bị phản bội .Biến cố bất hạnh 30 Tháng 4 1975 ập đến, Bắc Cộng tràn vào đánh chiếm cả miền Nam, Saigon thất thủ, VNCH sụp đổ, Nha Trang mất, ngôi Trường Ðồng Ðế lọt vào tay kẻ thù, hàng triệu người Bắc Nam suôi ngược tìm đường trốn chạy CS bỏ nước ra đi, hàng triệu người kẻ vượt núi đồi băng rừng đi đường bộ bất kể hiểm nguy, kẻ đổ xô ra biển lênh đênh trên những con thuyền bé nhỏ mong manh đương đầu với sóng xô bảo táp của đại dương mênh mông cùng lủ hải tặc man rợ. Chiến hữu Ðồng Ðế, kẻ mất người còn, kẻ vượt biển, người vượt biên, người bị Cộng quân trả thù, đày đọa trong lao tù tăm tối vô vọng…..
Ngày tháng qua đi, ngờ đâu vận may lại đến, ngọn lửa ngày mai, tương lai, hy vọng lóe lên, chiến dịch nhân đạo (Humanitarian Operations) ra đời từ bàn tay rộng mở của nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ sau đó. Những chiến binh Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tập trung dưới chế độ Cộng Sản dần dần được can thiệp ra khỏi nhà tù và cùng với gia đình sang định cư nơi Hoa Kỳ hoặc đến các quốc gia tự do khác trên thế giới…
Các cựu chiến binh VNCH có cơ hội gặp lại nhau nơi hải ngoại trong nỗi mừng vui khôn siết.
Sau cơn mưa trời lại tạnh
Qua cơn giông tố mịt mù trời lại sáng
Chiến tranh nào rồi cũng có ngày tàn
Cuộc chiến Việt
Nhưng tình chiến hữu vẫn thiết tha gắn bó.
Từ tâm nguyện đó cùng với ý chí của anh em tù nhân cải tạo nên đã hình thành được những Hội Ai Hữu các quân binh chủng và các quân trường của QLVNCH ở hải ngoại vào những năm đầu thập niên 90 cho đến nay trong đó có Quân trường Ðồng Ðế Nha Trang.
Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang khởi điểm là do một số anh em cựu SVSQ khóa 1 cùng tìm đến nhau tại quận Cam, Nam California Hoa Kỳ rồi hình thành ban đại diện khóa vào đầu năm 1997 để lo việc sinh hoạt và tương trợ nhau đồng thời cùng hợp tác với nhau trong việc tìm kiếm, liên lạc nối kết các chiến hữu đồng môn cựu SVSQ các khóa 1, 2, 3, 4 Sĩ Quan hiện dịch, các khóa Sĩ Quan trừ bị cùng các niên trưởng đang định cư tại các tiều bang Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới nhằm mục đích liên kết lại với nhau thành một tập thể có tổ chức để làm sống lại tình Huynh Ðệ Chi Binh và tương thân tương ái trong cuộc sống tị nạn CS tại hải ngoại.
Kết quả đến đầu năm 1998 đã nối kết được gần 200 anh em cựu SVSQ các khóa rồi bầu được ban đại diện khóa, ban đại diện toàn trường để lo chuẩn bị cho ngày họp mặt cựu SVSQ Ðồng Ðế vào giữa năm 1998 để sau đó tiến hành lập Hội Thân Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Ðồng Ðế Nha Trang.
Ngày họp mặt đầu tiên mang chủ đề “Họp Mặt Tình Nghĩa” được tổ chức vào ngày 26 Tháng 7 năm 1998 tại thành phố Santa Ana quy tụ được 200 anh em cựu SVSQ và gia đình cùng một số niên trưởng và thân hữu nhằm mục đích :
-Nối lại sợi dây thân ái, tình chiến hữu huynh đệ, tình đồng khóa, đồng trường .
-Thảo luận việc thành lập Hội thân Hữu cựu SVSQ Ðồng Ðế Nha Trang .
-Bầu Ban Tổ Chức Ðại hội và soạn thảo bản Nội quy Hội Thân Hữu .
Sau 5 tháng tiến hành, bản dự thảo nội quy của Hội thân hữu cựu SVSQ Ðồng Ðế hoàn thành vào năm 1999 và tiếp theo đó là Ðại hội Tình Nghỉa cựu SVSQ Ðồng Ðế Nha Trang khai diễn ngày chủ nhật 5-9-1999 cũng tại thành phố Santa Ana, miền Nam California với sự tham dự của hơn 300 cựu SVSQ và gia đình, cùng hơn 40 Niên Trưởng, Quan Khách và thân hửu đến dự từ một số tiểu bang ở Hoa kỳ, Canada, Úc Đại Lợi …, trong số nầy có cựu cố vấn trưởng của trường Ðồng Ðế là Ðại Tá Lewis Millett cùng một số phái đoàn cựu Chiến Sĩ Đại diện các Hội Ái Hửu Quân Binh Chủng tại địa phương dưới sự chủ tọa danh dự của Cựu Ðại Tá Phạm Văn Sơn, cựu Chỉ Huy Trưởng Ðồng Ðế trong những năm đầu của thập niên 60.
Mục đích của đại hội là gắn kết, phát huy tình chiến hữu huynh đệ và tương thân tương ái giữa các các cựu chiến sĩ đã một thời thụ huấn tại trường Ðồng Ðế Nha Trang, thông qua nội quy của hội, thực hiện Ðặc san làm tiếng nói của hội và bầu các phần hành điều hành hội trong nhiệm kỳ 3 (1999-2002).
Nội quy của cựu SVSQ Ðồng Ðế gồm 8 Chương và 22 điều khoản với tôn chỉ là :
“Làm mục đích kết hợp tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bực, đả từng thụ huấn tại Quân trường Ðồng Ðế Nha Trang thành một tập thể nhằm duy trì, phát huy tình chiến hửu, tình đồng khóa đồng trường để tương thân tương ái, chung vui sẻ buồn trong cuộc sống tha hương nơi hải ngoại”.
Ban chấp hành và Ban Giám sát do đại hội bầu ra gồm các cựu SVSQ các khóa 1,2 ,3 hiện dịch và các khóa trừ bị .
Sau 3 năm tích cực hoạt động, Ban chấp hành, Ban Giám sát nhiệm kỳ 1 mãn nhiệm . Ðại hội Tình Nghỉa cựu SVSQ kỳ V được tổ chức ngày 25-8-2005 tại thành phố Westminster, miền Nam California với mục đích thảo luận và biểu quyết việc mở rộng Hội Thân Hữu cựu SVSQ thành Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang cho phù hợp với tình hình thực tế và mời gọi tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bực, đã từng một thời phục vụ hoặc thụ huấn tại Trưòng Ðồng Ðế tham gia vào hội, bầu Ban chấp hành, Ban Giám sát cho nhiệm kỳ 2002-2005 . Ðặc biệt các thành viên trong ban chấp hành của hội bầu ra đều là những đồng môn trẻ hay trung niên thuộc các khoá Sĩ Quan trừ bị, thay thế cho lớp đàn anh các khóa hiện dịch hiện nay đều đả cao niên .
Vào cuối tháng 8-2005, Ban chấp hành và Ban Giám sát nhiệm kỳ 2 chấm dứt nhiệm vụ . Ðể mọi sinh hoạt của hội không gián đoạn, Ðại Hội Tình nghỉa Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang kỳ thứ VIII được tổ chứ ngày 4-9-2005 tại thành phố Santa Ana, quận Cam để bầu Ban chấp hành và Giám sát mới cho nhiệm kỳ 2005-2008 ,tu chỉnh Nội Quy và ấn định thể thức bầu ban cố vấn của hội .Kết quả tất cả 6 thành viên trong ban chấp hành nhiệm kỳ mới đều là các cựu SVSQ trừ bị. Riêng ban Cố Vấn , đại hội đồng thuận để ban chấp hành mời một số quý Niên Trưởng và Huynh Trưởng . Ðại Hội củng tán thành tu chính một số điều khoản trong Bản Nội Quy của hội, đặc biệt chú trọng đến điều khoản tương trợ hội viên bị bệnh hoạn, gặp hoàn cảnh khó khăn, tích cực giúp đở các chiến hửu, các thương binh, gia đình cô nhi quả phụ thuộc Trường Ðồng Ðế xưa mà ngày nay đang sống cơ cực lầm than nơi quê nhà.
Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế NhaTrang từ ngày thành lập cho đến nay và trong quá trình 9 năm hoạt động đã tổ chức được một ngày họp mặt toàn trường, 7 đại hội thưòng niên, tất cả đều mang chung chủ đề là:” Ðại hội Tình Nghỉa” và mỗi năm lại tổ chức họp mặt tất niên hoặc tân niên một lần . Ðường hướng sinh hoạt chung của hội đều theo đúng tôn chỉ, mục đích đả đề ra ngay từ ngày hội mới thành lập, đó là:
“Lấy tình nghĩa huynh đệ chi binh và lý tưởng tự do làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động .Nối kết tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bực đã một thời phục vụ hay thụ huấn tại Trường Ðồng Ðế Nha Trang thành một tập thể có tổ chức, nhằm duy trì phát huy tình huynh đệ đồng môn đồng trường để tương thân tương ái, chung vui sẻ buồn với nhau trong cuộc sống tha hương nơi hải ngoại “
Ngày nay anh em cựu chiến binh HộI Ái Hửu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang dù ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào củng đều ý thức được rằng:
Cuộc chiến đả tàn, nhưng tình chiến hữu vẫn thiết tha gắn bó ..
Và luôn luôn hướng về quê hương đất nước, nhớ về nơi quân trường củ, chiến trường xưa …
Miền
Nhan duoc tin nhan .
Toi van check mail thuong xuyen . Sau hon 30 nam , hinh anh Quan Truong Dong De van con nguyen ven trong toi . Nhung buoc chan dau doi vu'~ng va`ng khi to^i truong thanh .
Bien co Mau Than 1968 & Mua He Do Lua 1972 , the he tuoi tre cua chung ta ngay do deu :
" Chang tuoi tre von dong hao kiet , Xep but nghieng theo viec dao cung .... "
Than men ,
LE VAN NGHIA